10 vạn câu hỏi vì sao vật lý
Phần 171 - 180
10 vạn câu hỏi vì sao vật lý
171. Khoa học đa ngành của khoa học kĩ thuật là gì?
Nói một cách khái quát, môn khoa học hình thành và phát triển lên do hai hoặc trên hai môn học phân nhánh của khoa học tự nhiên xen lẫn vào nhau gọi là khoa học giáp ranh của khoa học tự nhiên. Nói cụ thể, khoa học giáp ranh là chỉ môn khoa học hình thành và phát triển lên bởi hai hoặc trên hai môn học phân nhánh của khoa học tự nhiên có sự trùng hợp từng phần ở các mặt đối tượng, phạm vi, lí thuyết và phương pháp nghiên cứu v.v. Ví dụ như hoá lí, lí sinh, địa hoá, vật lí thiên văn, hoá sinh v.v. đều thuộc về khoa học đa ngành. Lấy môn hoá học vật lí làm ví dụ, nó là mối liên hệ giữa hiện tượng hoá học và hiện tượng vật lí của vật chất, áp dụng phương pháp kết hợp các phương tiện thực nghiệm của hoá học và vật lí để tìm kiếm quy luật cơ bản của sự biến đổi hoá học. Trong giai đoạn hiện nay, nó chủ yếu do ba bộ phận nhiệt động học hoá học, động lực học hoá học và kết cấu vật chất kết hợp thành.
Sự tiến bộ của khoa học tự nhiên, nhất là sự phát triển như vũ bão trong gần hai, ba mươi năm trở lại đây, lại dẫn tới sự ra đời của một loạt các kĩ thuật cao và hiện đại, như kĩ thuật truyền thông, kĩ thuật vật liệu mới, kĩ thuật nguồn sáng mới, kĩ thuật nguồn năng lượng mới, kĩ thuật không gian, công nghệ phân tử, công nghệ di truyền v.v. Do kĩ thuật hoá khoa học và khoa học hoá kĩ thuật hiện nay đã trở thành một quá trình tiến hoá bên trong, đồng thời, khoảng cách thời gian giữa phát hiện khoa học với ứng dụng kĩ thuật đã rút ngắn lại rất nhiều, có khi không đến vài năm, hoặc chỉ mấy tháng. Ở mức độ nhất định, khoa học đang biến thành kĩ thuật, có quan hệ chặt với nhau; kĩ thuật càng cao, càng mới mẻ thì tri thức khoa học bao hàm trong đó càng tập trung nhiều. Mặt khác, xu thế phát triển chỉnh thể hoá, tổng hợp hoá của sự đan xen vào nhau giữa các phân nhánh gắn bó với khoa học hiện đại hoá, tình trạng kĩ thuật của các lĩnh vực hoà hợp với nhau cũng bộc lộ một cách nổi bật. Có thể nói, phân nhánh của các kĩ thuật cao mới mẻ nêu trên đây đều đã thành phân nhánh khoa học kĩ thuật giáp ranh, hình thành và phát triển lên do sự đan xen vào nhau của nhiều môn khoa học và kĩ thuật. Như công nghệ thông tin nói chung là chỉ tên gọi gồm cả truyền tin, máy tính điện tử và kĩ thuật điều khiển. Nó là sản phẩm của sự hoà hợp, đan xen vào nhau của nhiều môn khoa học kĩ thuật tự nhiên như vật lí bán dẫn, hoá học, kĩ thuật vi điện tử, kĩ thuật điều khiển tự động, kĩ thuật laze v.v.
Từ khoá: Khoa học kĩ thuật; Khoa học giáp ranh.
172. Vì sao xe đạp địa hình có thể chuyển líp đổi tốc độ?
Khi xe đạp địa hình đang chạy, có thể chuyển líp đổi tốc độ, còn xe đạp bình thường thì không có loại chức năng đó. Thì ra, trên xe đạp địa hình có lắp một cơ cấu chuyển líp đổi tốc độ (cái đêrayơ).
Khi cưỡi xe, hai chân đạp lên pêđan, làm cho cái đĩa quay, thông qua dây xích truyền động, làm cho cái líp trên trục bánh sau cũng quay theo, kéo cả bánh sau cùng quay, xe đạp cứ thế mà chạy tới phía trước. Còn trên trục bánh sau của xe đạp địa hình có lắp một cơ cấu chuyển líp đổi tốc độ. Nó do vài cái líp đường kính khác nhau hợp thành. Nếu chọn cái líp đường kính tương đối nhỏ thì cái đĩa quay một vòng, cái líp ở đằng sau sẽ quay rất nhiều vòng. Như vậy, tuy khi cưỡi xe phải bỏ ra một ít sức lực, nhưng tốc độ chạy của xe đạp lại có thể nâng cao tương ứng, có tác dụng tăng tốc. Nếu chọn cái líp có đường kính tương đối lớn, cái đĩa cũng quay một vòng như thế, song số vòng quay của cái líp ở đằng sau phải ít đi tương ứng. Như vậy, tuy tốc độ của xe đạp chậm lại, nhưng cưỡi xe đỡ mất sức, đặc biệt có ích khi xe lên dốc.
So với xe đạp bình thường chỉ có một cái líp trên trục bánh sau, xe đạp địa hình có lắp thêm vài cái líp đường kính khác nhau, người cưỡi xe có thể căn cứ địa hình khác nhau mà chọn lựa sử dụng.
Từ khoá: Xe đạp; Xe đạp địa hình; Cơ cấu chuyển líp đổi tốc độ (đêrayơ).
173. Vì sao lò điện từ phải dùng nồi đáy phẳng?
Trong đời sống hằng ngày, việc nấu nướng thức ăn phần nhiều dùng chảo gang sắt đáy hình cong. Còn khi thổi cơm nấu cháo thì phần nhiều dùng nồi đáy phẳng bằng nhôm hoặc inốc, tựa hồ chẳng có quy định nghiêm ngặt gì cả. Tuy nhiên, thổi cơm bằng lò điện từ lại yêu cầu dùng nồi sắt đáy phẳng. Tại sao vậy?
Hoá ra là điều đó có liên quan với nguyên lí công tác của lò điện từ. Lò điện từ chủ yếu do bộ phận biến tần, cuộn dây cảm ứng điện từ, tấm kính vi tinh thể hợp thành. Sau khi cắm dây vào ổ điện và bật công tắc lò, bộ phận biến tần lập tức đổi điện thành phố có tần số 50 Hz thành dòng điện cao tần có tần số 40 kHz, đặt lên cuộn dây cảm ứng điện từ. Căn cứ vào nguyên lí cảm ứng điện từ, xung quanh cuộn dây sẽ hình thành từ trường mạnh. Hướng của từ trường biến đổi theo sự biến đổi hướng của dòng điện đặt lên cuộn dây. Trong kĩ thuật điện tử, loại từ trường luân phiên đổi hướng này gọi là từ trường biến thiên. Khi ấy, tần số biến đổi của từ trường biến thiên (xoay chiều) trong lò điện từ cũng là 40 kHz.
Trong từ trường biến đổi với tần số cao như vậy, nếu đặt một tấm kim loại vào, cũng căn cứ theo nguyên lí cảm ứng điện từ từ trường thay đổi cũng sẽ cảm ứng ra dòng điện ở lớp mặt của tấm kim loại. Hướng chạy của dòng điện này giống như xoáy nước trong sông, nên có tên là dòng điện xoáy. Từ trường càng mạnh, tần số biến đổi càng cao, dòng điện xoáy càng lớn. Dòng điện xoáy chạy trong lớp mặt của tấm kim loại sẽ sinh ra nhiệt trên điện trở của lớp mặt tấm kim loại, và tán phát ra. Trị số điện trở trong một đơn vị thể tích của tấm kim loại (điện trở suất) càng lớn, nhiệt lượng tán phát ra cũng càng nhiều. Gia công tấm kim loại thành cái nồi, đặt bên cạnh cuộn dây cảm ứng điện từ thì có thể đốt nóng nồi, dùng để thổi cơm, nấu thức ăn. Đó tức là nguyên lí công tác của lò điện từ.
Nhưng, cường độ của từ trường biến thiên tại các điểm không đồng đều. Cường độ từ trường ở gần hai đầu cuộn dây cao nhất. Còn điện trở suất của kim loại cũng khác nhau. Ở trong cùng một từ trường biến thiên, điện trở của sắt gấp khoảng vài chục lần của đồng và nhôm. Qua đó có thể thấy, để trong nồi sinh ra nhiều nhiệt lượng hơn, nâng cao nhiệt độ trong nồi, phải đặt nồi đáy phẳng bên trên cuộn dây điện từ, so với nồi có đáy hình cong thì nó càng sát kề những nơi có từ trường mạnh nhất ở hai đầu cuộn dây điện từ. Còn dùng nồi sắt, so với nồi nhôm hoặc nồi đồng, nó càng tăng nhiều nhiệt lượng phát tán ra trong nồi, rút ngắn thời gian đun nấu.
Ngoài ra, tấm kính vi tinh thể làm bệ lò của lò điện từ cũng được gia công thành dạng phẳng để khớp với nồi đáy phẳng, làm cho nồi được đặt một cách vững chắc lên trên lò điện. Lò điện từ sử dụng an toàn, không có lửa. Vả lại, bản thân nồi sắt là chất phát nhiệt, so với các lò nhiệt chạy bằng điện khác, lò điện từ chẳng những nóng nhanh hơn, mà còn tiết kiệm điện hơn.
Từ khoá: Lò điện từ; Cảm ứng điện từ; Điện thành phố; Dòng điện cao tần; Từ trường biến thiên; Dòng điện xoáy.
174. Vì sao nồi cơm điện có thể tự động nấu chín cơm, giữ được nhiệt?
Dùng nồi cơm điện nấu cơm, chỉ cần cho gạo đã vo rồi vào trong nồi, đổ vào một lượng nước thích hợp, cắm dây vào nguồn điện, ấn công tắc xuống, đèn báo sáng lên, nồi cơm điện bắt đầu làm việc. Đến khi gạo chín thành cơm, đèn báo tự động tắt, một đèn báo giữ nhiệt khác sáng lên, chỉ rõ trong nồi đang ở trạng thái giữ nhiệt. Bất kể bao nhiêu lâu, nhiệt độ cơm trong nồi trước sau vẫn duy trì giữa 60 – 70°C, không hề nguội lạnh.
Chúng ta biết rằng, nhiệt lượng cần đến khi nồi cơm điện nấu cơm là do dây mai so phát ra sau khi thông điện. Cái đó cũng cùng một nguyên lí với nấu cơm bằng bếp điện. Song, nồi cơm điện có thể tự động nấu cơm, giữ nhiệt và vì nhờ có thêm hai công tắc điều khiển tự động lắp trong nồi: một cái là công tắc hạn chế nhiệt độ tự động, một cái khác là công tắc giữ nhiệt tự động.
Sau khi thông điện, nhiệt độ của nước và gạo trong nồi cơm điện dần dần lên cao. Trước khi hạt gạo nấu thành cơm chín, do trong nồi có một lượng nước, cho dù nước sôi lên, nhiệt độ của nó cũng giữ ở khoảng 100°C. Còn khi hạt gạo trong nồi dần dần mềm đi, sấy khô thành cơm chín, nhiệt độ mới có thể lên cao, vượt quá 100°C. Khi đạt tới 103°C, công tắc hạn chế nhiệt độ được thiết kế ở nhiệt độ đó, sẽ tự động cắt rời dây mai so với nguồn điện, nhiệt độ trong nồi liền hạ xuống dần dần.
Khi nhiệt độ trong nồixuống tới 60°C, công tắc giữ nhiệt bật lên, dây mai so lại được nối thông với nguồn điện, nhiệt độ trong nồi lại từ từ tăng lên; nhiệt độ lên đến 70°C, công tắc giữ nhiệt lại tự động cắt rời dây mai so với nguồn điện, nhiệt độ trong nồi lại từ từ hạ xuống, đến 60°C, công tắc giữ nhiệt lại hoạt động trở lại, lại nối thông nguồn điện... Công tắc giữ nhiệt hoạt động tuần hoàn lặp đi lặp lại như vậy làm cho nhiệt độ trong nồi luôn giữ ở mức 60 – 70°C, vừa đúng thoả mãn nhu cầu giữ nhiệt.
Công tắc hạn chế nhiệt độ và công tắc giữ nhiệt đảm nhận vai trò quan trọng trong nồi cơm điện đều do tấm lưỡng kim tổ thành. Một mặt của tấm lưỡng kim là hợp kim sắt - niken, mặt kia là hợp kim đồng - niken, dùng phương pháp cơ học cố định chúng vào với nhau, ở tình trạng cùng một nhiệt độ, phía hợp kim đồng - niken dễ giãn nở vì nhiệt hơn phía hợp kim sắt - niken. Như vậy khi nhiệt độ lên cao, tấm lưỡng kim liền cong về phía khó giãn nở, xuất hiện sự uốn cong. Một khi nhiệt độ xuống thấp, tấm lưỡng kim lại phục hồi dạng cũ. Lợi dụng đặc trưng này của tấm lưỡng kim để nó sinh ra uốn cong tại một nhiệt độ đặc biệt định sẵn thì có thể dùng làm công tắc tự động nối thông nguồn điện.
Từ khoá: Nồi cơm điện; Công tắc; Tấm lưỡng kim.
175. Vì sao máy sấy tay có thể tự động bật tắt?
Rửa sạch tay trước bữa ăn và sau khi đi vệ sinh phải dùng đến khăn mặt để lau khô tay. Khi đã có máy sấy tay, chỉ cần đưa tay ướt về phía dưới miệng gió của nó, công tắc của máy sẽ tự động bật lên, một luồng gió nóng từ trong miệng gió ào ạt tuôn ra, nước bám trên bàn tay bị thổi khô đi trong phút chốc. Sau khi rời tay khỏi máy hơ tay, công tắc của nó sẽ tự động tắt. Thật là nhanh chóng, tiện lợi lại sạch sẽ vệ sinh.
Máy hơ tay có thể tự động bật tắt là vì trong máy có lắp mạch điện cảm ứng tự động kiểu tụ điện biến đổi. Nó điều khiển một cầu điện cân bằng. Cầu điện này do bốn bộ phận hợp thành, trong kĩ thuật coi là bốn nhánh cầu. Mạch điện cảm ứng tự động kiểu tụ điện biến đổi hợp thành một nhánh cầu trong số đó.
Bộ phận cảm ứng của nó được lắp tại miệng gió của máy hơ tay. Khi bàn tay ướt xuất hiện ở dưới miệng gió, vì cơ thể người là vật dẫn điện, thế là làm cho trị số tụ điện của bộ phận cảm ứng xảy ra biến đổi, lập tức làm cho trị số của bốn nhánh cầu trong mạch điện của cầu điện từ cân bằng chuyển sang không cân bằng. Ở trạng thái cân bằng, dòng điện trong các nhánh cầu vốn triệt tiêu lẫn nhau, bây giờ không triệt tiêu nữa, một dòng điện mới xuất hiện. Nó làm cho rơle điện hoạt động, nối thông quạt gió và dây mai so vào nguồn điện. Trong chớp mắt, một luồng gió nóng liền thổi ra ào ạt không dứt. So với quạt máy dùng trong sinh hoạt hằng ngày, trong máy hơ tay chỉ tăng thêm một ổ mạch điện bật tắt điều khiển tự động.
Khi rời tay khỏi miệng gió, trị số tụ điện của bộ phận cảm ứng lập tức khôi phục như cũ, mạch điện của đầu điện cũng trở lại cân bằng, dòng điện mới biến mất, rơle điện nhả ra. Không có dòng điện đi qua quạt máy và dây mai so, máy hơ tay cũng tự động tắt ngay.
Từ khoá: Máy hơ tay; Mạch điện cảm ứng; Mạch điện của cầu điện cân bằng; Tụ điện.
176. Vì sao một số quạt máy có thể thổi ra gió mô phỏng tự nhiên?
Trước khi máy điều hoà không khí ra đời, quạt máy là đồ điện gia dụng không thể thiếu để chống nóng hạ nhiệt trong những ngày hè. Khi ấy, kết cấu của quạt máy tương đối đơn giản, lắp bốn cánh quạt hình lá trên trục của một động cơ điện, động cơ điện quay, kéo luôn các cánh quạt quay theo, một luồng gió liền thổi ra ngay. Lượng gió đó không thể thay đổi được, không như gió tự nhiên lúc mạnh, lúc yếu. Vì vậy, nếu quạt máy chạy thời gian dài, con người sẽ cảm thấy không thoải mái.
Tuy rằng về sau đã xuất hiện các loại quạt máy thay đổi tốc độ, lượng gió thổi ra có độ mạnh yếu khác nhau nhưng lượng gió của loại quạt này thay đổi tốc độ chỉ có vài nấc cố định, lại phải dùng tay mà bật, không thể tự động thay đổi, khác biệt rất lớn với cảm giác mạnh yếu biến đổi không ngừng riêng có của gió tự nhiên hiu hiu thổi qua thân người.
Để cho quạt máy có thể thổi ra gió mô phỏng tự nhiên, chỉ cần lắp vào trong quạt máy một bộ dao động điện tử tự kích phát do mạch tích hợp hoặc bóng tinh thể hợp thành. Tín hiệu dòng điện dao động biến đổi có chu kì ở đầu ra của bộ dao động điện tử sẽ điều khiển điện áp trên động cơ điện, làm cho điện áp đặt lên động cơ điện cũng theo đó mà xảy ra sự biến đổi cao thấp có chu kì một cách tương ứng, qua đó làm cho lượng gió ở quạt máy thổi ra cũng có sự biến đổi có chu kì từ mạnh dần dần chuyển yếu, lại từ yếu dần dần chuyển mạnh. Thứ gió không ngừng biến đổi này thổi lên thân người, quả thật có một chút giống với gió tự nhiên.
Từ khoá: Gió tự nhiên; Quạt máy; Động cơ điện; Bộ dao động điện tử tự kích phát.
177. Vì sao "mắt mèo" không thể nhìn từ hai đầu?
"Mắt mèo" là một vật phẩm hết sức có ích lắp được trên cửa ra vào. Không cần mở cửa, thông qua nó, người trong buồng có thể nhìn tổng quát không bỏ sót cảnh vật bên ngoài cửa, góc nhìn đạt tới trên 150o. Nếu qua "mắt mèo" từ ngoài cửa quan sát trong buồng, giả dụ trong buồng có ánh sáng, chỉ có thể trông thấy một chấm sáng cỡ hạt đậu xanh, còn như trong buồng rất tối thì không trông thấy gì cả. Cho nên khi lắp "mắt mèo", nhất thiết phải chú ý không được lắp ngược.
Vậy thì vì sao mắt mèo có được loại chức năng này? Nguyên lí hoạt động của nó như thế nào nhỉ?
Tháo dỡ mắt mèo một cách cẩn thận nhẹ nhàng, chúng ta có thể tỉ mỉ nghiên cứu xem cấu tạo bên trong của nó.
“Mắt mèo” do hai nhóm thấu kính tạo thành. Một nhóm nằm sát phía ngoài cửa do ba thấu kính lõm ghép lại. Thấu kính a là thấu kính lồi lõm, vì bộ phận giữa của nó mỏng hơn mép vành, cho nên nó vẫn thuộc về thấu kính lõm. Thấu kính b, c đều là thấu kính phẳng lõm. Ba thấu kính a, b, c ghép chặt vào nhau. Cũng có loại “mắt mèo” mà nhóm thấu kính này do hai thấu kính lõm hợp thành hoặc chỉ có một thấu kính lõm. Số lượng thấu kính nhiều hay ít có ảnh hưởng nhất định đối với chất lượng hình thành ảnh. Nhóm thấu kính kia nằm sát phía trong cửa là một thấu kính lồi.
Nhóm thấu kính do ba thấu kính lõm hợp thành có tác dụng của thấu kính lõm. Do nó là tổ hợp của ba thấu kính lõm nên tiêu cự ảo của nó rất ngắn, làm cho góc quan sát của mắt mèo rất lớn, như thể cảnh vật bên ngoài cửa đều được thu toàn bộ vào trong mắt mèo. Giả thiết AB là vật thể ở ngoài cửa, căn cứ vào nguyên lí hình thành ảnh của thấu kính lõm, một ảnh của A'B' cỡ nhỏ, cùng chiều, hình thành cùng phía của thấu kính.
Ảnh ảo A'B' vừa đúng rơi vào trong tiêu cự của một thấu kính lồi khác. Căn cứ vào nguyên lí hình thành ảnh của thấu kính lồi, lại hình thành lên một ảnh ảo A"B" cùng chiều và phóng to, hơn nữa ảnh ảo đó vừa đúng rơi vào trong phạm vi thấy rõ của mắt, cho nên người trong buồng thông qua mắt mèo có thể trông rõ cảnh vật ngoài cửa.
Nếu lắp ngược mắt mèo, nhìn từ phía nhóm thấu kính lõm vào vật thể ở ngoài thấu kính lồi d, do vật thể ở ngoài thấu kính lồi nói chung ở ngoài hai tiêu cự của thấu kính lồi, căn cứ vào nguyên lí hình thành ảnh, cự li của ảnh phải ở trong khoảng giữa một và hai tiêu cự, là một ảnh thật cỡ nhỏ, ngược chiều. Còn nhóm thấu kính lõm lại nằm trong một tiêu cự của thấu kính lồi, cho nên không sao trông thấy được ảnh đó.
Nếu vật thể ở ngoài thấu kính lồi ở trong khoảng một tiêu cự và hai tiêu cự của thấu kính lồi, căn cứ vào nguyên lí hình thành ảnh của thấu kính lồi, cự li của ảnh phải ở ngoài hai tiêu cự, là một ảnh thực phóng to, ngược chiều. Ảnh này cũng không sao thấy được.
Về bảo vệ an toàn chống kẻ gian cho căn hộ, còn có hệ thống điều khiển theo dõi như máy đối thoại, máy ảnh và máy truyền hình khép kín v.v. Song mắt mèo có những ưu điểm như xinh xắn, tinh vi, giá rẻ, không tiêu tốn năng lượng, hình thành ảnh rõ nét v.v. bất kể là hiện tại hay tương lai bao giờ cũng có chỗ đứng của nó.
Từ khoá: Mắt mèo; Thấu kính lõm; Thấu kính lồi.
178. Vì sao dùng máy nhìn đêm có thể thấy rõ cảnh vật trong bóng tối?
Muốn nhìn rõ cảnh vật trong tối đen, chỉ dựa vào mắt thường thì vô cùng khó khăn. Song nhờ vào máy nhìn đêm thì dù không có ánh sáng, hoặc chỉ có một chút tia sáng yếu ớt, vẫn có thể nhìn thấy cảnh vật rõ mồn một trong tình trạng như vậy. Máy nhìn đêm thường dùng có hai loại: máy nhìn đêm ánh sáng yếu và máy nhìn đêm tia hồng ngoại.
Trong đêm tối, chỉ cần có một chút ánh trăng sao lờ mờ, bóng tăng ảnh trong máy nhìn đêm vi quang (ánh sáng yếu ớt), thông qua chuyển đổi quang điện và phóng đại, có thể tăng cường tia sáng yếu ớt, phản xạ từ cảnh vật ra. Bóng tăng ảnh do tấm phóng đại ba cấp hợp thành, khả năng phóng đại có thể tới một triệu lần, đủ để tái hiện cảnh vật trong môi trường ánh sáng yếu ớt rõ mồn một.
Trong tình trạng hoàn toàn không có ánh sáng thì máy nhìn đêm tia hồng ngoại lại rất có tác dụng.
Tia hồng ngoại không phải là ánh sáng nhìn thấy, mắt thường không thấy được, nhưng cũng có đặc điểm của ánh sáng. Các loại vật thể trong giới tự nhiên, có nhiệt độ từ không độ nhiệt động học trở lên (tức là –273,15°C trở lên), đều có thể bức xạ ra tia hồng ngoại. Bóng biến ảnh tia hồng ngoại trong máy nhìn đêm tia hồng ngoại có thể tiếp nhận tia hồng ngoại, thông qua chuyển đổi quang điện và phóng đại để cho cảnh vật hiện rõ ra. Đó là loại máy nhìn đêm tia hồng ngoại kiểu thụ động, phải dựa vào tia hồng ngoại của bản thân cảnh vật bức xạ ra mới có thể thấy rõ cảnh vật trong tối đen. Còn có một loại máy nhìn đêm tia hồng ngoại chủ động. Nó có thể phát ra tia hồng ngoại, rồi lại thu nhận tia hồng ngoại phản xạ trở lại từ cảnh vật. Điều này có thể nâng cao rõ rệt độ rõ nét của cảnh vật.
Máy nhìn đêm tia hồng ngoại cũng có thể soi "thấy" không lầm lẫn trong môi trường sương mù dày đặc, tầm nhìn rất gần, vì rằng tia hồng ngoại có khả năng xuyên thấu khá mạnh, có thể truyền tới khoảng cách rất xa. Có được máy nhìn đêm tia hồng ngoại, không bật đèn pha, người lái xe cũng có thể cho ô tô chạy nhanh trong đêm tối. Về mặt trinh sát quân sự, phòng chống tội phạm của công an và quan sát động, thực vật trong tối đen, máy nhìn đêm tia hồng ngoại càng có công dụng đặc biệt.
Từ khoá: Máy nhìn đêm; Tia hồng ngoại; Bóng tăng ảnh.
179. Vì sao đèn bàn điện tử có thể phòng ngừa cận thị?
Cận thị, ngoại trừ di truyền bẩm sinh ra, còn liên quan tới thói quen sử dụng mắt không tốt hoặc không chú ý vệ sinh cho mắt. Như khi xem sách, viết chữ, tia sáng xung quanh quá mờ tối, khoảng cách từ mắt đến trang sách quá gần, thời gian dùng mắt quá dài, v.v. đều có thể làm cho thuỷ tinh thể trong nhãn cầu biến dạng, tạo thành cận thị.
Để phòng ngừa cận thị, người ta đã áp dụng nhiều biện pháp, bao gồm việc sử dụng các loại đèn bàn điện tử có tác dụng bảo vệ mắt và tránh bị cận thị.
Bên trong của loại đèn bàn điện tử này nói chung đều có lắp mạch điện điều khiển điện tử chuyên dùng có chức năng tự động cảnh báo, điều chỉnh ánh sáng và hẹn giờ.
Khi bạn ngồi đọc sách, viết chữ trước đèn bàn điện tử, nếu mắt cách quyển sách quá gần, nhỏ hơn 25 cm, đèn sẽ phát ra tiếng chuông cảnh báo, thậm chí tắt đi để gợi sự chú ý, nhắc nhở bạn giữ đúng tư thế đọc, viết.
Nếu ánh sáng xung quanh bàn quá sáng hoặc quá tối, đèn bàn điện tử cũng sẽ tự động điều chỉnh độ chói của ánh sáng cho đến khi hợp với yêu cầu. Hơn nữa, cái chụp đèn của nó là loại thiết kế chuyên dụng để ánh sáng không gây ra hiện tượng loá mắt, rất êm dịu, mắt đỡ bị mỏi.
Ngoài ra, đèn sáng được 45 phút, bộ phận hẹn giờ trong đèn bàn điện tử lập tức hoạt động, ánh đèn tự động tắt. Đồng thời đèn phát ra một bản nhạc du dương êm tai, nhắc bạn nên để cho con mắt nghỉ ngơi đã. Còn hai bóng hai cực phát sáng màu xanh trên chụp đèn bắt đầu nháy sáng luân phiên để cho mắt liếc đảo đuổi theo, có lợi cho việc loại bỏ sự mỏi mắt. Loại đèn bàn điện tử nhiều chức năng này rất có ích đối với việc tập luyện thói quen dùng mắt đúng đắn và chú ý giữ vệ sinh cho mắt, có tác dụng phòng ngừa cận thị.
Từ khoá: Đèn bàn điện tử; Cận thị; Phòng ngừa cận thị.
180. Mắt điện tử giúp người mù "nhìn" đồ vật như thế nào?
Người mù hai mắt bị hỏng, không trông thấy thế giới vô biên rực rỡ sắc màu, trong đời sống, công tác và học tập đều gặp muôn vàn khó khăn. Để giúp cho họ "nhìn thấy" đồ vật, các nhà khoa học đã phát minh ra nhiều loại mắt điện tử có tác dụng đối với người mù.
Một loại là mắt điện tử sóng siêu âm. Chính là dựa vào phát và thu sóng siêu âm mà con dơi bay liệng thoải mái trên không. Con người nhận được gợi ý từ con dơi, đã phát minh ra mắt điện tử sóng siêu âm. Thông thường, mắt điện tử sóng siêu âm được gắn vào kính đeo mắt, đèn pin hoặc gậy chống mà người mù sử dụng. Bộ phận tạo sóng siêu âm trong mắt điện tử phát sóng ra về phía trước mặt. Sóng siêu âm là một loại sóng âm thanh, tần số của nó cao hơn nhiều so với sóng âm thanh bình thường. Tai chúng ta không nghe được loại sóng siêu âm đó. Khi sóng siêu âm gặp phải vật chướng ngại sẽ phản xạ trở lại, được bộ phận thu sóng siêu âm trong mắt điện tử thu lại,rồi chuyển biến thành âm thanh từ trong ống nghe phát ra. Dựa vào sự thay đổi âm điệu của sóng âm thanh, người mù có thể phán đoán ra trước mặt là vật chướng ngại như thế nào.
Loại thứ hai là mắt điện tử laze. Nguyên lí của nó tương tự như mắt điện tử sóng siêu âm, cũng có bộ phận phát và bộ phận thu. Chỉ có điều nó sử dụng laze chứ không phải là sóng siêu âm. Bộ phận tạo tia laze trong mắt điện tử có thể sinh ra ba chùm laze, chia ra ba độ cao khác nhau: cao, giữa, thấp, phát ra phía trước mặt. Sau khi gặp vật chướng ngại, ba chùm đó liền phản xạ về, đi vào bộ phận thu laze, rồi chuyển đổi thành âm thanh ba âm điệu cao thấp khác nhau để người mù phân biệt. Cái đó đã mở rộng phạm vi có thể "nhìn", nâng cao tính chuẩn xác của tác dụng giúp nhìn.
Mắt điện tử phỏng sinh đang trong thực nghiệm là loại chuyển đổi hình ảnh mà máy ghi hình ghi lại thành tín hiệu dòng điện, đưa vào trong điện cực cấy ghép tại khu thần kinh thị giác của đại não người mù, nhằm làm cho người mù thật sự "nhìn" thấy hình dạng và màu sắc của vật thể.
Từ khoá: Mắt điện tử; Sóng siêu âm; Laze; Mắt điện tử phỏng sinh.