10 vạn câu hỏi vì sao vật lý
Phần 211 - 225
10 vạn câu hỏi vì sao vật lý
211. Vì sao có loại tivi có chức năng phân chia màn hình?
Một cái tivi chỉ có một màn hình, nói chung chỉ có thể thu xem tiết mục của một kênh. Song có một loại tivi có chức năng phân chia màn hình, có thể đồng thời với việc thu xem bình thường tiết mục của một kênh nào đó, trên màn hình mở ra hình tượng nhỏ, thu xem tiết mục của một kênh khác.
Tivi thực hiện chức năng phân chia màn hình như thế nào? Hoá ra là loại tivi đó có hai hệ thống thu tín hiệu riêng rẽ. Hệ thống thu tín hiệu của hình tượng lớn không có gì khác với tivi nói chung. Còn hệ thống thu tín hiệu của hình tượng nhỏ, ngoài việc có thể thu tín hiệu, tiến hành khuếch đại, giải mã v.v. ra, còn có thêm một bộ phận lưu giữ so với hệ thống thu thông thường. Tín hiệu sau khi được hai hệ thống thu đó thu vào và xử lí, thông qua cùng một hệ thống quét và hiện lên màn hình. Muốn cho cả hai hình tượng lớn nhỏ hiện ra đồng thời trên màn hình, nhất thiết phải làm cho thời gian quét của chúng hoàn toàn thống nhất. Tuy nhiên, hệ thống quét của tivi thống nhất với sự hiện hình của hình tượng lớn. Hệ thống thu của hình tượng nhỏ cần phải cất giữ tín hiệu sau khi được thu và xử lí vào một nơi trước đã, đến khi cần hiện lên thì lấy ra. Đó chính là nguyên nhân vì sao hệ thống thu tín hiệu của hình tượng nhỏ phải có thêm một bộ phận lưu giữ.
Bộ phận lưu giữ của hệ thống thu tín hiệu hình tượng nhỏ do vài tấm mạch tích hợp cỡ lớn hợp thành. Nó rất giống một cái kho lớn có nhiều bãi để hàng. Khi cần hiện ra hai hình tượng lớn nhỏ trên cùng một màn hình, nội dung của một vị trí nào đó của hình tượng lớn sẽ được xoá đi, như kiểu mở ra cái cửa sổ trên mái nhà. Tivi lấy ra tín hiệu từ trong bộ phận lưu giữ, bổ sung vào chỗ để trống. Như vậy là có thể đồng thời trên cùng một màn hình hiện ra hai hình tượng lớn nhỏ. Quá trình hiện ra bổ sung này rất giống với bài tập điền bổ sung mà chúng ta làm thường ngày. Cả quá trình do một mạch điện điều khiển chuyên dùng điều hành. Động tác đưa vào của hình tượng nhỏ và sự quét của chùm electron có sự đối ứng thời gian rất nghiêm ngặt. Khi chùm electron quét đến vị trí của một hàng tương ứng nào đó, liền có thể tự động rút ra tín hiệu hình tượng nhỏ từ trong bộ phận lưu giữ, phục hồi thành tín hiệu hình ảnh, nối vào vị trí tương ứng, còn ở các vị trí khác vẫn nối với tín hiệu của hình tượng lớn. Như vậy, trên cùng một màn hình, tiết mục của hai kênh có thể đồng thời hiện ra. Do tín hiệu điều khiển hầu như là đồng thời sinh ra, sai biệt trước sau chỉ là một phần triệu giây đồng hồ, vì vậy thị giác của chúng ta không sao cảm nhận được.
Khi thu xem, âm thanh kèm của hình tượng lớn do loa phát ra, âm thanh kèm của hình tượng nhỏ có thể dùng ống nghe để thu nghe. Khi cần thiết, tiết mục của hình tượng lớn nhỏ còn có thể đổi cho nhau. Loại tivi có chức năng phân chia màn hình này chẳng những có thể làm tăng giải trí cho đời sống con người, mà ở các mặt giáo dục, nghiên cứu khoa học, công nghiệp, giao thông vận tải, y tế v.v. cũng có được tiền đồ ứng dụng rộng rãi.
Từ khóa : Tivi; Phân chia màn hình.
212. Thế nào là tivi màn hình tinh thể lỏng?
Số đông người xem truyền hình đều có một cảm giác là màn hình tivi càng lớn, hình ảnh càng hùng tráng. Song màn hình tivi mà lớn, đèn hình tivi cũng phải theo đó mà mở rộng kích thước, gia tăng công suất tiêu thụ điện. Điều đó làm cho thể tích của tivi trở nên hết sức cồng kềnh, khối lượng cũng tăng lên nhiều. Một tivi màu màn hình lớn cỡ 74 cm, ít ra cũng nặng tới 40 - 50 kg, nếu muốn chuyển dời vị trí của nó cũng không dễ dàng. Vì vậy, dùng vật liệu lúc đầu để sản xuất tivi màn hình lớn là có giới hạn. Những người làm công tác nghiên cứu khoa học kĩ thuật truyền hình đã thiết kế ra màn hình thể hiện hình ảnh truyền hình bằng vật liệu tinh thể lỏng.
Vật liệu chủ yếu chế tạo loại tấm truyền hình này là tinh thể lỏng. Tính chất của tinh thể lỏng ở giữa chất lỏng và tinh thể, vừa có tính chảy của chất lỏng, lại vừa có tính chất các hướng dị tính của tinh thể. Chính là loại hình thái kì lạ đặc biệt này đã làm cho tinh thể lỏng có hiệu ứng quang điện nhanh nhạy. Dưới tác động của từ trường và điện trường, các phân tử của tinh thể lỏng sắp xếp lại, từ chất trong suốt biến thành không trong suốt. Loại tính năng dị thường đặc biệt này vừa khéo có thể thoả mãn yêu cầu của việc chế tác tấm hiện hình truyền hình.
Thành phần chủ yếu của tivi tinh thể lỏng là một tấm hiện hình tinh thể lỏng. Công nghệ chế tạo của nó hết sức đơn giản: nhét một lớp vật liệu tinh thể lỏng chiều dày bằng 10 - 15 micron vào giữa hai miếng kính quang học mỏng, phẳng phiu, có cùng kích thước. Sau khi bịt kín bốn phía của nó lại là đã làm thành một màn hình tivi tinh thể lỏng. Độ dày của nó chỉ bằng 1/20 - 1/30 của tivi đèn hình thông thường, còn trọng lượng thì giảm tới 80 - 90% của loại đó. Hơn nữa, diện tích của miếng kính lớn bao nhiêu thì hình ảnh truyền hình cũng lớn bấy nhiêu, thực sự đạt đến tiêu chuẩn mặt phẳng vuông góc.
Tín hiệu thị tần của tivi màn hình tinh thể lỏng không cần phải tiêu hao rất nhiều điện năng như tivi đèn hiện hình, chỉ cần một mạch tích hợp CMOS là có thể trực tiếp thúc đẩy việc hiện hình đen trắng hoặc màu. Cho nên bộ phận hiện hình loại này tiêu thụ điện năng rất ít, có thể chạy bằng pin được. Nói chung, đối với tivi màn hình tinh thể lỏng cỡ nhỏ thì bốn viên pin số 5 cũng đủ để thu xem các tiết mục truyền hình trong 10 giờ. Ngoài ra, do màn hình tinh thể lỏng bằng phẳng, lại rất mỏng, điều đó làm cho việc chế tạo tivi treo tường cỡ lớn trở nên hiện thực.
Hiện nay, trên thế giới đã chế tạo được tivi màn hình tinh thể lỏng từ 6,5 đến hàng mét. Ví dụ đã có loại màn hình tivi màu tinh thể lỏng siêu lớn, độ nét cao, kích thước 3,2 m x 4,3 m, có năng suất phân giải cao tới 6 triệu phần tử ảnh. Dưới ánh sáng tương đối mạnh ở ngoài trời, độ tương phản hình ảnh của màn hình ấy vẫn rất tốt.
Từ khoá: Tivi; Tivi màn hình tinh thể lỏng; Tinh thể lỏng.
213. Thế nào là truyền hình số?
Truyền hình số sẽ trở thành phương hướng phát triển từ nay về sau của truyền hình. Hiện nay Trung Quốc đã thu được một số thành công trong phạm vi thực nghiệm. Với truyền hình số thực sự, chẳng những máy thu truyền hình do hệ thống xử lí số thay cho hệ thống xử lí tương tự hiện tại, mà tín hiệu truyền hình trong sóng vô tuyến điện cao tần phát đi từ đài truyền hình hoặc vệ tinh nhân tạo cũng không phải tín hiệu tương tự, mà là tín hiệu số.
Hệ thống truyền hình hiện dùng của Trung Quốc thuộc về hệ thống truyền hình tương tự. Việc xử lí của hệ thống truyền hình tương tự đối với tín hiệu truyền hình có thể coi như quá trình tiến hành "phục chế" tín hiệu truyền hình. Sau khi tivi trong nhà thu được tín hiệu truyền hình từ đài phát, chúng sẽ được khuếch đại, tách sóng, giải mã, làm cho âm thanh, hình ảnh, màu sắc được hoàn nguyên. Nếu khoảng cách phát sóng tương đối xa, môi trường thu tồi thì sẽ xuất hiện những khuyết tật như âm thanh không rõ, hình ảnh méo mó biến dạng, màu sắc không thật v.v.
Hệ thống truyền hình số áp dụng kĩ thuật mã hoá nén thông tin tín hiệu số tiên tiến, kĩ thuật mã hoá sửa sai đường truyền và kĩ thuật truyền tín hiệu số. Trong tiết mục truyền hình sắp phát đi, các tín hiệu tương tự của âm thanh, hình ảnh, màu sắc v.v. phải được biến thành tín hiệu số qua các bước lấy mẫu, lượng tử hoá, mã hoá trước đã. Tín hiệu số là chuỗi kí hiệu số nhị phân do hai con số 1 và 0 lập thành. Tiếp đến là nén thông tin. Sau khi điều chế bằng sóng vô tuyến điện cao tần thì phát chúng ra qua ăngten hoặc qua dây cáp. Người sử dụng phải sử dụng máy thu truyền hình số thực sự để thu những tín hiệu đó. Máy thu truyền hình số sẽ tiến hành khuếch đại, tách sóng, chỉnh hình hoàn nguyên ra các tín hiệu số đối với các tín hiệu thu được. Do có áp dụng kĩ thuật mã hoá sửa sai (mã sửa lỗi) nên máy truyền hình có thể tự động sửa các sai sót của con số sinh ra bởi nguyên nhân truyền tín hiệu v.v. Sau đó thông qua xử lí chuyển đổi tín hiệu số sang tín hiệu tương tự, hình ảnh đưa ra càng giống, màu sắc càng tự nhiên, âm hưởng cũng càng có cảm giác như ở hiện trường.
Tóm lại, chỗ ưu việt của truyền hình số so với truyền hình tương tự là:
- Hiệu quả âm thanh - hình ảnh chất lượng cao.
- Chức năng truyền tăng nhiều, lượng thông tin truyền đi tăng lên. Theo đà phát triển của kĩ thuật, một khi hệ truyền hình số có ý nghĩa thực sự được dựng nên, người ta sẽ có hàng ngàn kênh truyền hình để lựa chọn và yêu cầu tiết mục muốn thưởng thức và còn có thể nối tivi vào mạng máy tính, làm chức năng là một bộ phận của máy tính.
Sự quá độ của truyền hình tương tự sang truyền hình số phải lần lượt trải qua ba giai đoạn: điều khiển số, xử lí số và số hoá hoàn toàn. Hiện nay, kĩ thuật sản xuất tivi màu của Trung Quốc đang ở vào hai giai đoạn đầu, cho nên trên thị trường chưa có một máy thu số thực sự. Đồng thời Trung Quốc cũng chưa có một đài phát tiết mục truyền hình số thực sự. Các "tivi số hoá" trên thị trường chỉ là loại có áp dụng xử lí số hoá trong mạch điện cục bộ để cải thiện chất lượng âm thanh và hình ảnh của truyền hình, cho nên không phải là tivi số thực sự.
Từ khoá: Truyền hình số; Hệ thống xử lí tương tự; Hệ thống xử lí số.
214. Vì sao tủ lạnh có thể làm lạnh?
Tủ lạnh chủ yếu do ba thành phần lớn là hệ thống làm lạnh, hệ thống điều khiển và khung vỏ tủ cấu tạo thành, trong đó quan trọng nhất là hệ thống làm lạnh. Nó do máy nén khí, bộ ngưng tụ, bộ lọc khô, ống mao dẫn và bộ bốc hơi hợp thành. Chúng lấy máy nén khí làm trung tâm, liên kết thành một đường khép kín tuần hoàn: máy nén khí → bộ ngưng tụ → bộ lọc khô → ống mao dẫn → bộ bốc hơi → máy nén khí. Chất làm lạnh tuần hoàn chạy trong đường khép kín này là freon của khí quyển, ảnh hưởng tới môi trường sống của con người, nên hiện nay người ta đã thay nó bằng một chất làm lạnh mới để sản xuất ra một thế hệ mới tủ lạnh xanh.
Trong máy nén khí có mô tơ và xi lanh. Sau khi nối điện, mô tơ quay với tốc độ cao, đẩy pít tông trong xi lanh chuyển động tới lui, phát ra tiếng rì rì đều đặn. Nó liên miên không ngừng hút chất làm lạnh thể khí ở nhiệt độ thấp, áp suất thấp từ trong bộ bốc hơi vào, và dưới áp lực lớn mạnh của pít tông, chúng bị nén thành chất khí nhiệt độ cao, sau đó được đưa vào bộ ngưng tụ.
Bộ ngưng tụ có năng lực tản nhiệt nhanh chóng. Nó có những đường ống uốn khúc và những tấm toả nhiệt xếp dày đặc, diện tích tiếp xúc hữu hiệu với không khí rất lớn, nhiệt lượng sẽ tán phát rất nhanh vào không khí. Chất làm lạnh thể khí ở nhiệt độ cao, áp suất cao, thông qua tản nhiệt của bộ ngưng tụ, nhiệt độ có phần hạ xuống, song áp suất vẫn rất cao, từ thể khí biến thành thể lỏng. Bộ lọc khô nằm ở bên dưới của bộ ngưng tụ, dùng để lọc chất bẩn và lượng nước bám chứa trong chất làm lạnh thể lỏng. Chất này đi tiếp vào ống mao dẫn vừa mảnh vừa dài. Ống mao dẫn là một đoạn ống đồng mảnh hình xoắn ốc, đường kính trong chỉ bằng 0,2 - 0,3 mm. Nó có tác dụng tiết lưu, làm cho chất làm lạnh thể lỏng đi vào bộ bốc hơi.
Bộ bốc hơi là một hốc kim loại hình ống đường kính lớn hơn ống mao dẫn nhiều, lắp đặt ở trong ngăn đông lạnh. Từ ống mao dẫn đến bộ bốc hơi, ở chỗ lỗ nối, đường kính của ống đột ngột từ bé biến thành lớn; khi chất làm lạnh thể lỏng đi vào bộ bốc hơi thì dường như đi vào một "thế giới mênh mông" không ràng buộc, áp lực bỗng chốc tụt thấp, chất làm lạnh thể lỏng nhanh chóng bốc hơi thành thể khí, hấp thu một lượng lớn nhiệt lượng trong ngăn đông lạnh của tủ lạnh.
Lúc ấy, chất làm lạnh thể khí ở nhiệt độ thấp, áp suất thấp trong bộ bốc hơi lại một lần nữa bị máy nén khí hút vào, bước tiếp vào một vòng làm lạnh khép kín mới. Cứ quay đi quay lại như vậy, một vòng rồi lại một vòng làm lạnh khép kín, nhiệt độ trong tủ lạnh từ từ hạ xuống, cho đến khi đạt được nhiệt độ làm lạnh theo yêu cầu quy định thì máy nén khí mới tự động ngừng chuyển động.
Do đó có thể thấy rằng, tủ lạnh làm lạnh dựa vào sự chuyển động của máy nén khí, thúc đẩy chất làm lạnh tiến hành làm lạnh. Chất làm lạnh hút một lượng lớn nhiệt lượng trong bộ bốc hơi "tước đoạt" đi nhiệt lượng của thực phẩm cất trong tủ lạnh, rồi thông qua bộ ngưng tụ mà chuyển dời ra ngoài tủ lạnh, tán phát vào không khí. Cho nên bề mặt của máy nén khí và của bộ ngưng tụ rất nóng. Khi bố trí tủ lạnh, cần phải cách mặt tường 10 cm trở lên. Đó là cách giúp cho bộ ngưng tụ toả nhiệt.
Hệ thống điều khiển của tủ lạnh chủ yếu có điều khiển nhiệt độ, điều khiển tan băng, điều khiển khởi động môtơ trong máy nén khí, điều khiển vận hành an toàn của môtơ v.v. Hệ thống điều khiển có thể bảo đảm cho hoạt động bình thường của hệ thống làm lạnh.
Khung vỏ của tủ lạnh có tính năng cách nhiệt hết sức tốt. Nó ngăn cách tủ lạnh thành một không gian cách li với bên ngoài. Trong tủ lạnh nói chung chia thành hai phần: ngăn đông lạnh và ngăn cất giữ lạnh. Bộ bốc hơi của tủ lạnh lắp đặt ở ngăn đông lạnh. Cho nên nhiệt độ của ngăn đông lạnh tương đối thấp. Nhiệt độ trong ngăn cất giữ lạnh cao hơn ngăn đông lạnh một ít. Thực phẩm để ở trong tủ lạnh có thể tiến hành đông lạnh hoặc cất giữ lạnh.
Từ khoá: Tủ lạnh; Chất làm lạnh;Máy nén khí; Bộ ngưng tụ; Bộ bốc hơi.
215. Máy điều hoà không khí vì sao vừa có thể làm lạnh lại vừa có thể làm nóng?
Máy điều hoà không khí hai chiều nóng và lạnh, mùa hè có thể làm lạnh, mùa đông lại có thể làm nóng, thật tiện lợi vô cùng.
Khi làm lạnh, máy điều hoà không khí lợi dụng quá trình chất làm lạnh từ thể lỏng bốc hơi thành thể khí hút nhiệt lượng xung quanh. Điều này giống với nguyên lí làm lạnh của tủ lạnh.
Trong máy điều hoà không khí chủ yếu có máy nén khí, bộ ngưng tụ, bộ lọc khô, ống mao dẫn tiết lưu và bộ bốc hơi, về cơ bản tương tự như cấu tạo của phần làm lạnh trong tủ lạnh. Chỉ có điều bộ ngưng tụ trên máy điều hoà không khí lắp đặt ở ngoài phòng, có thể tán phát nhiệt lượng ở ngoài phòng mà biến cả gian phòng thành một "tủ lạnh lớn".
Khi máy điều hoà không khí bắt đầu hoạt động, máy nén khí nén chất làm lạnh thể khí ở trạng thái nhiệt độ thấp, áp suất thấp thành chất khí nhiệt độ cao, áp suất cao, rồi được đưa vào bộ ngưng tụ. Bộ phận lắp ở ngoài phòng này có khả năng tản nhiệt nhanh chóng, nhiệt độ của chất làm lạnh ở trong đó tụt xuống, nhưng áp suất vẫn rất cao y nguyên, từ thể khí biến thành thể lỏng. Chất làm lạnh sau hoá lỏng, lại đi qua bộ lọc khô, sau khi loại bỏ tạp chất và nước, chảy vào ống mao dẫn tiết lưu. Tại đây, áp suất của chất làm lạnh đột ngột hạ xuống, thoắt một cái đã ùa vào bộ bốc hơi kề bên. Khi ấy, chất làm lạnh thể lỏng nhanh chóng bốc hơi thành thể khí, hút một lượng lớn nhiệt lượng xung quanh, chất làm lạnh lại biến thành chất khí ở trạng thái nhiệt độ thấp, áp suất thấp, đi vào máy nén khí, tiến hành một vòng làm lạnh mới kế tiếp. Vì bộ bốc hơi lắp đặt ở trong phòng, cho nên chất làm lạnh trong bộ bốc hơi hút nhiệt lượng thì đồng thời nhiệt độ trong phòng cũng từ từ hạ xuống, có tác dụng làm lạnh.
Thế thì máy điều hoà không khí như thế nào mới có tác dụng làm nóng nhỉ? Thực ra, chỉ cần biến đổi bộ bốc hơi lắp trong phòng của máy điều hoà không khí thành bộ ngưng tụ, và biến đổi bộ ngưng tụ lắp ở ngoài phòng thành bộ bốc hơi, máy điều hoà không khí liền hút nhiệt lượng ở ngoài phòng, tán phát vào trong phòng, thực hiện tác dụng làm nóng. Muốn cho máy điều hoà không khí hoàn thành loại chuyển đổi này, ngoài việc phải sử dụng toàn bộ cấu kiện khi làm lạnh ra, còn phải có thêm một cái van đổi chiều chất làm lạnh. Khi làm nóng, chỉ cần điều khiển công tắc của van, làm cho chất làm lạnh thể khí ở trạng thái nhiệt độ cao, áp suất cao từ trong máy nén khí chuyển động ra, không phải đi về hướng bộ ngưng tụ ở ngoài phòng trước, mà là về hướng bộ bốc hơi ở trong phòng trước đã, để bộ bốc hơi thay thế bộ ngưng tụ một cách nhân tạo. Chất làm lạnh thể khí nhiệt độ cao, áp suất cao chuyển động vào bộ bốc hơi, nhiệt độ trên bộ phận này liền tăng lên đột ngột, thông qua quạt máy thổi gió, nhanh chóng tán phát nhiệt lượng ra xung quanh, làm cho nhiệt độ trong phòng dần dần tăng lên, có tác dụng làm nóng. Đồng thời, nhiệt độ của tấm làm lạnh hạ xuống, áp suất vẫn cao như cũ, từ thể khí biến sang thể lỏng. Chất làm lạnh thể lỏng sẽ lưu động về phía bộ ngưng tụ, hoàn thành quá trình giảm áp suất, bốc hơi trong bộ ngưng tụ. Vì vậy, chất làm lạnh trong bộ ngưng tụ phải hấp thu nhiệt lượng xung quanh. Nếu bên ngoài phòng băng tuyết tràn ngập, khi nhiệt độ không khí đã xuống thấp hơn nhiệt độ trên bộ ngưng tụ, bộ phận này liền không thể hút nhiệt lượng từ trong môi trường xung quanh, máy điều hoà không khí không sao làm nóng được nữa. Đó là điều cần chú ý khi sử dụng máy điều hoà không khí.
Từ khoá: Máy điều hoà không khí; Chất làm lạnh; Làm lạnh; Làm nóng máynén khí; Bộ ngưng tụ; Bộ bốc hơi.
216. Vì sao sau khi tủ lạnh và máy điều hoà không khí tạm ngừng, phải đợi 3 - 5 phút sau mới được khởi động lại?
Trên tờ hướng dẫn sử dụng tủ lạnh và máy điều hoà không khí bao giờ cũng có thể đọc được những điều cần chú ý mà nhà sản xuất nhắc nhở người mua: sau khi cắt nguồn điện, phải đợi 3 - 5 phút sau mới được tiếp tục sử dụng. Đó là để bảo vệ máy nén khí - "quả tim" của tủ lạnh và máy điều hoà không khí.
Máy nén khí chủ yếu do môtơ và xi lanh hợp thành. Pít tông, tay biên trong xi lanh và môtơ nối liền với nhau. Khi mô tơ quay, lôi pít tông tuần hoàn qua lại trong xi lanh, nén chất làm lạnh khí hoá thành trạng thái nhiệt độ cao áp suất cao rồi đưa vào trong bộ ngưng tụ. Nếu mất điện bất chợt hoặc cắt nguồn điện, máy nén khí sẽ đột nhiên ngừng quay. Khi ấy, chất làm lạnh trong bộ ngưng tụ vẫn có áp suất cực cao, trong xi lanh cũng còn tồn tại chất làm lạnh có áp suất rất cao. Nếu lúc ấy lập tức nối thông nguồn điện, vì trong xi lanh còn ngưng lại chất khí áp suất cao, mô tơ phải là loại có lực khởi động rất lớn mới có thể lôi được pít tông chạy. Như vậy, dòng điện đi vào môtơ sẽ tăng cao trong phút chốc, làm cho môtơ sản ra công càng lớn, thúc đẩy pít tông khắc phục lực cản của chất làm lạnh áp suất cao, chuyển động trong xi lanh. Khi ấy phụ tải của mô tơ quá nặng, chịu đựng dòng điện xung kích quá mạnh, có khả năng làm cháy mô tơ, tổn hại đến máy nén khí.
Sau khi tủ lạnh và máy điều hoà không khí ngừng hoạt động, đợi 3 - 5 phút rồi mới thông nguồn điện. Khi ấy chất làm lạnh áp suất cao trong xi lanh và bộ ngưng tụ đã thông qua ống mao dẫn từ từ lưu động về bộ bốc hơi, áp lực trong xi lanh trở nên thấp, mô tơ trong máy nén khí có thể bắt đầu quay trong tình trạng bình thường, sẽ không xảy ra chuyện tổn hại đến máy nén khí.
Hiện nay, có một số nhà sản xuất lắp cái điều chỉnh điện áp tự động vào trong tủ lạnh và máy điều hoà không khí, chuyên để bảo vệ máy nén khí - quả tim của tủ lạnh và máy điều hoà không khí. Khi mất điện đột ngột lại có điện ngay, nó sẽ tự động kéo dài sau 5 - 7 phút mới nối thông nguồn điện.
Từ khoá: Tủ lạnh; Máy điều hoà không khí; Máy nén khí; Bộ ngưng tụ; Chất làm lạnh; Xi lanh.
217. Vì sao cửa và vách khung của tủ lạnh đều khá dày?
Chẳng biết bạn có để ý: vách khung và cửa của tủ lạnh dùng trong nhà đều khá dày, thường là 40 - 80 mm. Thiết kế như vậy tuy bên ngoài nhìn có vẻ hơi thô nặng, nhưng về công hiệu cách nhiệt giữ "lạnh" thì lại hết sức cần thiết.
Mọi người đều biết, nhiệt lượng bao giờ cũng truyền từ vật thể có nhiệt độ cao đến vật thể có nhiệt độ thấp. Nó không thể tự động truyền từ vật thể có nhiệt độ thấp đến vật thể có nhiệt độ cao. Hơn nữa, chênh lệch nhiệt độ càng lớn thì sự truyền nhiệt càng nhanh. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa trong và ngoài tủ lạnh rất lớn. Nhiệt lượng ngoài tủ lạnh không ngừng muốn chui vào trong tủ lạnh. Song trong quá trình nhiệt lượng ngoài tủ lạnh chạy vào trong tủ lạnh, gặp phải vách khung và cửa tủ lạnh khá dày, trong quá trình truyền nhiệt, đối với cùng một loại vật liệu thì khoảng cách đi qua càng lớn, nhiệt lượng truyền vào được càng nhỏ. Còn ở đây, khoảng cách truyền nhiệt chính là độ dày của vách khung và cửa tủ lạnh. Vì vậy, vách khung và cửa tủ lạnh càng dày, hiệu quả cách nhiệt giữ "lạnh" càng tốt.
Cố nhiên, ngoài sự liên quan với độ dày của vách khung và cửa ra, hiệu quả cách nhiệt giữ "lạnh" của tủ lạnh cũng có liên quan với tính chất vật liệu của vách khung và cửa. Vật liệu gỗ và nhựa có độ dày như nhau, sẽ có hiệu quả khác nhau. Vì vậy, khi nhà sản xuất chế tạo vách khung và cửa tủ lạnh, phải chọn dùng vật liệu có hiệu quả cách nhiệt tốt mà lại nhẹ và mỏng. Như vậy, vách khung và cửa tủ lạnh sẽ vừa nhẹ vừa mỏng, không gian chiếm cứ của nó sẽ ít bớt và còn có thể tiết kiệm điện năng.
Từ khóa : Tủ lạnh; Truyền nhiệt.
218. Tủ lạnh xanh là gì?
Tủ lạnh thông thường chủ yếu do máy nén khí, bộ ngưng tụ, bộ bốc hơi v.v. hợp thành, còn cần có một loại chất làm lạnh là freon tham dự vào. Chất làm lạnh lưu động đi về giữa máy nén khí, bộ ngưng tụ, bộ bốc hơi, trong sự biến đổi luân phiên giữa thể khí và thể lỏng, xảy ra hiện tượng vật lí tản nhiệt và hút nhiệt, làm cho tủ lạnh đạt được hiệu quả làm lạnh. Cho nên không thể thiếu được freon trong tủ lạnh với vai trò của chất làm lạnh.
Freon lưu động tuần hoàn đi lại trong tủ lạnh, thời gian dài ra, khó tránh khỏi tán thoát ra từ khe nứt của chỗ nối hoặc từ trong lỗ ống dẫn bị ăn mòn, bốc hơi trong không khí. Tủ lạnh không thể làm lạnh phần lớn là do thiếu hụt freon vì bị rò rỉ. Lượng freon do một tủ lạnh rò ra là không đáng kể. Song lượng rò rỉ từ hàng triệu hàng triệu tủ lạnh gia đình trên toàn thế giới thì tương đối đáng kể. Một lượng lớn freon đi vào tầng bình lưu của khí quyển, dưới sự chiếu xạ dữ dội của tia tử ngoại trong ánh Mặt Trời, có thể phân giải giải phóng ra nguyên tử clo, làm cho tầng ozon xuất hiện lỗ hổng, tia tử ngoại Mặt Trời liền lợi dụng chỗ trống lọt vào, từ lỗ hổng chiếu xuyên tới Trái Đất, phá hoại môi trường sinh thái của Trái Đất, nguy hại tới sức khoẻ của loài người. Vì vậy, Tổ chức bảo vệ môi trường quốc tế đã quy định: trước năm 2020, các nước cấm toàn diện việc sử dụng freon trong tủ lạnh.
Cái gọi là tủ lạnh xanh tức là tủ lạnh không còn dùng freon làm chất làm lạnh nữa. Như vậy mới tránh được sự phá huỷ của freon đối với tầng ozon của Trái Đất. Vì lẽ đó, trong tủ lạnh xanh, phải chọn dùng chất khí hoá học không thể phá hoại tầng ozon để thay cho freon. Biện pháp tốt hơn là làm theo kiểu khác, dứt khoát gạt bỏ tất cả những thứ như chất làm sạch và máy nén khí, bộ ngưng tụ, bộ bốc hơi v.v., ứng dụng bộ làm lạnh bán dẫn để chế tạo tủ lạnh.
Cái gọi là bộ làm lạnh bán dẫn tức là hai loại vật liệu bán dẫn có thuộc tính khác nhau liên kết chặt chẽ với nhau. Nguyên lí làm lạnh của nó là sự ứng dụng hiệu ứng Peltier. Năm 1834, nhà khoa học Pháp, Peltier, phát hiện: khi hai loại vật liệu bán dẫn hoặc vật liệu kim loại có thuộc tính khác nhau, sau khi đưa điện một chiều vào hai đầu của chúng, chỉ cần thay đổi hướng chạy của điện một chiều thì ở đầu nối của chúng sẽ tương ứng xuất hiện hiện tượng vật lí hoặc hấp thu hoặc giải phóng nhiệt lượng, có hiệu quả làm lạnh, hoặc làm nóng. Vì vậy, bộ làm lạnh bán dẫn ứng dụng hiệu ứng Peltier để chế thành, có thể tạo ra tủ lạnh xanh không cần tới chất làm lạnh.
Tủ lạnh xanh ứng dụng bộ làm lạnh bán dẫn, chẳng những triệt để trị tận gốc nguồn phá huỷ tầng ozon của freon, mà nó còn có những ưu điểm như: tốc độ làm lạnh nhanh, thể tích nhỏ, không có cơ khí và đường ống, không có tiếng ồn, tính tin cậy cao, v.v. có thể thực hiện làm lạnh và làm nóng một cách thuận tiện, có tiền đồ phát triển hết sức rộng lớn.
Từ khoá: Tủ lạnh; Tủ lạnh xanh; Chất làm lạnh freon; Bộ làm lạnh bán dẫn; Tầng ozon; Hiệu ứng Peltier.
219. Vì sao máy rèm gió có thể ngăn cách không khí trong và ngoài cửa được?
Mùa hè đi trên đường phố, thật là oi bức khó chịu. Nhưng khi bước vào hiệu buôn lớn đang chạy máy điều hoà, phút chốc cảm thấy trong người khoan khoái mát mẻ. Bên ngoài là thế giới của không khí nóng, bên trong là đất trời của không khí mát lạnh. Tuy nhiên, có bao giờ bạn tự hỏi: cửa của hiệu buôn mở toang, không khí bên ngoài cùng không khí lạnh bên trong liệu có chạy vào chạy ra và trộn lẫn vào nhau không? Thì ra, do trên cửa có lắp đặt máy rèm gió, luồng gió mạnh mà nó thổi ra đã ngăn cách một cách vô hình không khí bên trong và bên ngoài.
Kết cấu của máy rèm gió không phức tạp mấy, chủ yếu do một máy quạt gió cấu thành. Ống cửa ra gió của máy quạt gió được gia công thành cửa mảnh dài dạng bẹt, ăn khớp với độ rộng của cửa ra vào. Vì vậy, gió từ cửa ra gió của máy quạt gió thổi ra, không phải tập trung vào một điểm, mà là trên một mặt phẳng, giống như rèm cửa dùng cho phòng ở, hình thành lên một rèm gió thổi mạnh. Sức gió của rèm gió hết sức mạnh mẽ, tốc độ của nó nhanh hơn nhiều so với tốc độ chuyển động của không khí ở hai bên, hình thành nên một con đường rộng rãi cho không khí trong máy rèm gió chuyển động, ngăn cách không khí trong và ngoài cửa lại.
Máy rèm gió và máy điều hoà không khí hai chiều nóng lạnh kết hợp lại với nhau thì mùa hè sẽ thổi ra gió mát lạnh, mùa đông sẽ thổi ra gió ấm nóng. Máy rèm gió có lắp máy tính con vào, còn có khả năng tự động điều chỉnh tốc độ gió và nhiệt độ, càng tiện lợi thoải mái khi sử dụng.
Từ khoá: Máy rèm gió; Chuyển động của không khí.
220. Máy chụp ảnh "thằng ngốc" chụp ảnh như thế nào?
Nhắc đến máy chụp ảnh "thằng ngốc", xin đừng đoán nghĩa qua mặt chữ, nó được trang bị bằng kĩ thuật điện tử tiên tiến cơ đấy. Tên gọi chính thức của nó là máy chụp ảnh nhìn thẳng hoàn toàn tự động tiện mang xách cỡ nhỏ. Khi dùng máy ảnh thông thường, trước hết phải căn cứ vào độ sáng của môi trường xung quanh, điều chỉnh tốt điafam (tấm chắn sáng) và tốc độ của cửa sập, sau đó lại căn cứ khoảng cách của cảnh vật cần chụp, điều tiết tốt tiêu cự của ống kính. Những cái đó đều cần đến kĩ xảo nhất định. Vì vậy, để chụp được một tấm ảnh vừa ý, đâu phải là một chuyện dễ dàng.
Nếu dùng máy ảnh "thằng ngốc" thì đơn giản tiện lợi hơn nhiều. Chỉ cần đưa khung ngắm đối chuẩn vào cảnh vật cần chụp, bấm cửa sập, một tấm ảnh rõ ràng liền được chụp xong. Vì trong máy ảnh "thằng ngốc" có lắp cơ cấu độ sáng tự động kiểu trình tự điện tử, nó có thể trong khoảnh khắc bấm máy, hoàn thành toàn bộ quá trình tự động đo ánh sáng, tự động điều chỉnh điafam (tấm chắn sáng) và tốc độ của cửa sập, tự động chỉnh tiêu cự v.v.
Cơ cấu lộ sáng tự động kiểu trình tự điện tử chủ yếu do cái đo ánh sáng, mạch điện điều khiển lộ sáng, mạch điện cảnh báo độ sáng và cái điều khiển trình tự v.v. hợp thành. Khi chụp ảnh, linh kiện nhạy sáng trong cái đo ánh sáng trước hết chuyển đổi tia sáng từ cảnh vật phản xạ ra thành tín hiệu điện, rồi đưa vào mạch điện điều khiển lộ sáng. Căn cứ vào độ cảm quang của phim nhựa đã lắp sẵn, sau khi tiến hành phân tích đối chiếu, mạch điện điều khiển lộ sáng lập tức truyền ra một tín hiệu mệnh lệnh, lần lượt đưa vào mạch điện cảnh báo độ sáng và cái điều khiển trình tự.
Trong cái điều khiển trình tự đã thiết lập sẵn trình tự, căn cứ vào tốc độ cửa sập và kính thước điafam, sắp xếp ghép thành từng cặp đối ứng. Nếu độ sáng trên cảnh vật đầy đủ, mệnh lệnh đưa vào trong cái điều khiển trình tự lập tức có hiệu lực. Nó liền rút ra một cặp tốc độ cửa sập và kích thước điafam thích hợp với môi trường từ trong nhiều loại trình tự, và điều chỉnh chúng hết sức nhanh chóng. Khi ấy, chỉ cần bạn ấn nút bấm xuống, một tiếng "lạch xạch" vang lên và một tấm ảnh được chụp xong liền ngay đó. Nếu độ sáng trên cảnh vật không đủ, đèn chỉ thị cảnh báo nháy sáng, đèn chớp sẽ tự động bật lên, làm cho xung quanh cảnh vật có đủ độ sáng, cái điều khiển trình tự mới có tác dụng.
Khi máy ảnh "thằng ngốc" chụp ảnh, cần có sự cung cấp đầy đủ điện năng. Hai viên pin 1,5 vôn có thể chụp một cuộn phim 30 pô. Một khi điện áp của pin hạ xuống, máy chụp ảnh "thằng ngốc" không thể hoạt động nữa.
Từ khóa : Máy chụp ảnh; Máy chụp ảnh thằng ngốc; Cơ cấu lộ sáng tự động.
221. Vì sao máy chụp một lần thành ảnh sau khi chụp là có thể lấy ảnh ngay?
Nguyên lí công tác của việc chụp ảnh không còn là điều bí mật nữa. Trên phim chụp ảnh có phết một lớp nguyên liệu cảm quang - nhũ tương bạc halogenua. Sau khi cảm quang, nó sẽ lưu lại hình ảnh ẩn. Bạc halogenua bị cảm quang, dưới tác động của nước thuốc hiện hình, hoàn nguyên thành bạc kim loại, biến thành hạt màu đen, xếp đống trên nền phim. Số lượng bạc hoàn nguyên được quyết định bởi cường độ cảm quang. Chỗ cảm quang mạnh thì hạt bạc hoàn nguyên nhiều, chỗ cảm quang yếu thì hạt bạc hoàn nguyên ít. Như vậy là trên phim có thể hình thành hình ảnh vật thể có tầng lớp sáng tối. Mức độ đen trắng của các bộ phận hình ảnh trên phim vừa đúng ngược lại với mức độ sáng tối của vật thể được chụp, tức là bộ phận sáng của vật thể, trên phim hiện ra màu đen, còn bộ phận tối của vật thể, trên phim hiện ra trong suốt. Loại hình ảnh này gọi là "ảnh âm", loại phim này gọi là "phim âm".
Bạc halogenua không bị hoàn nguyên trên phim sẽ trôi hết trong quá trình xối rửa. Nếu chúng không bị rửa trôi thì mức độ đậm nhạt của hình ảnh hình thành lên vừa đúng ngược lại với bạc halogenua của ảnh âm hình thành do hoàn nguyên, là một bức ảnh chung. Nếu như không rửa sạch số bạc halogenua đó mà là giữ nguyên chỗ và số lượng vốn có của chúng rồi khuếch tán đến một tấm phim khác, sau đó tiến hành hiện hình, định hình, thế chẳng phải là có thể nhận được một tấm ảnh dương hay sao?
Vật liệu cảm quang của một lần thành ảnh do hai loại nền phim tổ thành. Nền phim của lớp mặt trên là phim âm, bề mặt của nó có bôi chất cảm quang bạc halogenua lớp mỏng, hàm lượng bạc cao. Nếu phim của lớp bên dưới là phim dương, bề mặt có bôi một lớp tiếp thụ do than hoạt tính, sunfua, chất keo v.v. tổ thành. Giữa hai lớp nền phim được ngăn bởi một túi chất dẻo có chứa dịch thể thuốc đậm đặc. Thứ này do chất hiện hình, chất định hình, dung dịch bạc halogenua, chất keo phối chế mà thành. Phim âm sau khi bị cảm quang, hai lớp nền phim đồng thời bị một cặp trục lăn ép qua, túi chất dẻo bị dồn nén rách, dịch thể thuốc đậm đặc trải đều trên mặt ghép chồng nhau của phim âm và phim dương. Khi ấy giữa phim âm, dương xảy ra một loạt phản ứng hoá học nhanh chóng. Trong lớp nhũ tương của phim âm, bạc halogenua của bộ phận cảm quang hoàn nguyên sinh ra bạc kim loại, ở lại trên phim âm, bạc halogenua của bộ phận chưa cảm quang bị dịch thể thuốc hoà tan, khuếch tán đến lớp tiếp thụ của phim dương, tiếp xúc với chất xúc tác bạc sunfua trong lớp tiếp thụ, hoàn nguyên thành bạc kim loại, hình thành phim dương mà chúng ta cần trên nền phim của lớp thứ hai. Như vậy là nhận được một tấm ảnh đen trắng. Còn như ảnh màu của một lần thành ảnh, nguyên lí cơ bản của nó cũng giống thế. Có điều vật liệu cảm quang của nó và quá trình phản ứng hoá học phức tạp hơn nhiều với ảnh đen trắng.
So sánh với máy ảnh thông thường, thiết kế của cửa sập và ống kính của máy ảnh một lần thành ảnh không có gì khác, song thân máy lắp phim nhựa thì không giống với loại thường. Để quay in và ép vỡ túi đựng dịch thể thuốc, trên thân máy có một cặp trục lăn inốc, nền phim âm, dương đi qua sự nghiền ép của cặp trục lăn đó.
Phim nhựa của một lần thành ảnh để trong hộp, mỗi hộp có tám tấm. Khi chụp ảnh, hộp phim lắp ở đằng sau thân máy. Chụp xong, kéo đoạn giấy dẫn ra trước đã, làm cho mặt chính của phim âm, dương ghép chồng vào, rồi kéo phim từ trong khe hở của cặp cặp trục lăn ra. Qua vài giây sau, giở phim dương từ trên phim âm xuống, quét thêm một lớp dịch thể làm sáng bóng là đã có được một tấm ảnh phẳng phiu bóng nhoáng rồi.
Chụp ảnh một lần thành ảnh đợi lấy được ngay, có những ưu điểm chụp nhanh, tiết kiệm muối bạc, v.v. về các mặt quốc phòng, nghiên cứu khoa học, y tế trị liệu và đưa tin báo chí, v.v. nó đều có ứng dụng rộng rãi.
Từ khoá: Chụp ảnh; Cảm quang; Hiện hình Ảnh âm; Phim âm; ảnh dương; Phim dương.
222. Máy chụp ảnh kĩ thuật số là gì?
Chụp ảnh bằng máy ảnh thông thường, cần phải sử dụng phim nhựa. Từ khi loại máy ảnh số ra đời, không sử dụng phim nhựa cũng có thể lưu lại hình ảnh của cảnh vật. Thế thì máy ảnh số làm việc như thế nào nhỉ?
Bây giờ chúng ta hãy so sánh một cách đơn giản máy ảnh số với máy ảnh thông thường. Ống kính, điafam, cửa sập và thân máy của máy ảnh thông thường cũng có thể gặp thấy trên máy ảnh số. Song những bộ phận khác trên máy ảnh thông thường như kính ngắm để quan sát cảnh vật được chụp, hộp tối để lắp phim nhựa, thì không tìm thấy dấu vết của chúng trên máy ảnh số.
Trong máy ảnh số dùng bộ chụp hình thể rắn và bộ nhớ nhanh để thay phim nhựa, lưu giữ hình ảnh của cảnh vật được chụp. Bộ chụp hình thể rắn và một loại sản phẩm khoa học kĩ thuật cao, linh kiện cốt lõi của nó là cái ngẫu hợp quang điện. Tác dụng của cái ngẫu hợp quang điện là sau khi ấn cửa sập xuống, trong khoảnh khắc lộ sáng, nhanh chóng chuyển đổi những thông tin quang học chiếu lên mặt phẳng tiêu thành thông tin số nhị phân, thông tin số và nhanh chóng cất giữ trong bộ nhớ nhanh. Cái đó tựa như tia sáng đi qua ống kính làm cho phim nhựa cảm quang ở khoảnh khắc cửa sập mở ra trong máy ảnh thông thường.
Một sự khác biệt chủ yếu nữa giữa máy ảnh số và máy ảnh thông thường là máy ảnh số dùng bộ chỉ thị tinh thể lỏng màu làm màn hiện hình thay cho kính ngắm của máy ảnh thông thường. Diện tích của màn hiển thị này không lớn, kích thước như miếng giấy diêm đánh lửa trên bao diêm, độ dài của đường chéo khoảng 40 - 60 mm. Ngoài việc dùng để ngắm nhìn cảnh vật cần chụp, tiến hành lấy cảnh ra, cái chỉ thị tinh thể lỏng màu sắc còn có một công dụng quan trọng khác, đó là có thể lập tức ngắm nhìn và biên tập tấm ảnh đã chụp xong. Phát hiện những tấm ảnh không vừa ý, có thể lập tức xoá chúng trong bộ nhớ, dành không gian của bộ nhớ để nhập những tấm ảnh mới chụp. Đó là điều mà máy ảnh thông thường không thể so sánh được.
Trong bộ nhớ nhanh của máy ảnh số có thể cất giữ bao nhiêu tấm ảnh? Đơn vị dung lượng của nó là megabit, kí hiệu bằng MB. Dung lượng bộ nhớ của máy ảnh số bằng 2 MB, 4 MB, 8 MB, v.v. Độ rõ nét của hình ảnh máy ảnh số nói chung có ba loại lựa chọn: dạng kinh tế, dạng tiêu chuẩn và dạng tinh tế. Ví dụ dùng máy ảnh số Kodak DC - 120 có bộ nhớ 4 MB, nếu áp dụng dạng tiêu chuẩn, nhiều nhất có thể cất giữ 40 tấm ảnh. Nếu áp dụng dạng kinh tế, nhiều nhất có thể cất giữ 80 tấm ảnh. Còn như áp dụng dạng tinh tế thì nhiều nhất có thể cất giữ 120 tấm. Bộ nhớ nhanh của máy ảnh số giống như một cái thẻ, có thể cắm vào rút ra. Nếu địa phương bạn đến tương đối xa, một lần cần chụp một số lượng lớn ảnh thì có thể mang thêm một số thẻ bộ nhớ, như cách chuẩn bị thêm một số cuộn phim khi dùng máy ảnh thông thường vậy.
Bạn có thể nhập số liệu (ảnh chụp) trong bộ nhớ của máy ảnh số một cách tiện lợi vào máy tính của bạn, thông qua màn chỉ thị màu của máy tính, thoả sức thưởng thức tác phẩm của mình. Bạn cũng có thể vận dụng phần mềm xử lí hình ảnh cài đặt trong máy tính, tiến hành xử lí tấm ảnh chụp được một cách tuỳ thích, hoàn thành các thao tác phóng to, cắt xén, nối ghép, tu sửa... Thông qua e-mail, bạn có thể truyền tấm ảnh đến một nơi xa ngoài ngàn dặm trong vòng có mấy phút đồng hồ. Sau khi đã tích luỹ hình ảnh có lượng tích trữ khoảng 600 MB, có thể ghi khắc chúng lên đĩa quang, làm cho những hình ảnh này có thể gìn giữ hàng chục năm, thậm chí trên một trăm năm.
Chỉ trong có vài năm ngắn ngủi, tính năng và chủng loại của máy ảnh số đã phát triển rất nhanh. Thể tích của nó giảm nhỏ đi, chức năng tăng lên, giá cả hạ xuống. Máy ảnh số đang lặng lẽ bước vào nhà của những người dân bình thường.
Từ khóa : Máy ảnh số; Bộ nhớ.
223. Có thể dùng phương pháp laze để điều trị cận thị không?
Ngày nay, rất nhiều thanh thiếu niên do không biết giữ gìn mắt khi đọc sách, học bài nên dẫn đến hậu quả là mắt bị cận thị, suốt ngày phải đeo cặp kính cận. Tuy đeo kính có thể giúp người mắt kém nâng cao thị lực nhưng việc đeo kính lại có nhiều bất tiện, chưa kể là mắt kính chẳng bao giờ có tác dụng điều trị cận thị cả. Vì thế, nhiều năm lại đây, các nhà vật lý học cũng như các bác sỹ luôn mong muốn có thể tìm ra một phương pháp điều trị cận thị từ các ứng dụng của vật lý.
Những năm 70 của thế kỷ 20, bác sỹ nhãn khoa của Liên Xô (cũ) đã tìm ra kĩ thuật điều trị cận thị từ băng phương pháp phẫu thuật thay đổi độ cong của giác mạc, mang lại hiệu quả điều chỉnh hình ảnh hội tụ đúng võng mạc. Sau này, việc phát minh ra dao mổ laze khiến thao tác trở nên dễ dàng hơn, chuẩn xác hơn. Con người đã nhanh chóng thay thế phương pháp mổ ngoại khoa thông thường bằng phương pháp mổ laze, đem lại hiệu quả điều trị cận thị an toàn và cao hơn hẳn.
Để hiểu hơn về phương pháp mổ cận bằng laze, ta sẽ tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến cận thị nhé! Cấu tạo của mắt người gồm giác mạc, thủy tinh thể, võng mạc và các thành phần hoàn chỉnh khác. Trong tình trạng bình thường, ánh sáng đi qua vật thể, tới giác mạc và thủy tinh thể, đồng thời hình thành ảnh rõ ràng ở võng mạc. Nhờ vậy, mắt nhìn được vật thể. Nhưng người bị cận thì chỉ nhìn rõ vật ở cự li gần, ở khoảng cách xa sẽ bị mờ, nhìn không rõ. Bởi lẽ, mắt cận thị thì trục nhãn cầu quá dài, hoặc công suất hội tụ của giác mạc và thủy tinh thể quá lớn khiến cho hình ảnh hội tụ ở phía trước võng mạc, tạo nên hình ảnh không rõ ràng ở võng mạc. Mắt kính cận thông thường giống như một thấu kính lõm, có tác dụng phân kì đối với chùm sáng, khiến những hình ảnh của vật thể ở xa có thể rơi đúng võng mạc, từ đó có tác dụng điều chỉnh thị lực.
Khác với việc đeo kính, điều trị cận thị bằng phương pháp laze là lợi dụng kĩ thuật laze để thay đổi độ cong của giác mạc, giúp điều chỉnh thị lực ở người bệnh, người bệnh có thể nhìn rõ vật thể. Phẫu thuật điều trị cận thị bằng máy laze exime, có thể phát ra sóng tia tử ngoại dài 193 nm (1 nm = 10-9 m). Dưới sự điều khiển của máy tính, laze từng chút từng chút tiến hành “gia công” đối với bề mặt của giác mạc, trở thành một “con dao phẫu thuật” vô cùng tinh xảo. Laze có được công năng kiện toàn như thế là nhờ tính chất đơn sắc, đơn phương hướng, cũng như đặc điểm dễ điều khiển, ổn định cao.
Phẫu thuật bằng phương pháp laze cũng có thể điều trị viễn thị hay tật loạn thị ở mắt, có ưu điểm thời gian phẫu thuật ngắn, an toàn, không đau, kết quả sau mổ ổn định. Hiện nay, ở các nước Mỹ, Đức, Anh, Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam… đều sử dụng phương pháp điều trị cận thị bằng laze, tỉ lệ thành công lên tới trên 93%.
Từ khóa: Laze, cận thị.
224. DVD là gì?
DVD là đĩa veo laze dạng số. Nó cùng máy DVD phối hợp đồng bộ sử dụng, có thể phát ra tiết mục hình ảnh chất lượng cao. Nó được phát triển trên cơ sở của đĩa hát laze, tức là đĩa CD. Nhưng sự phối hợp giữa CD cùng máy CD chỉ có thể phát ra các tiết mục âm thanh âm nhạc. Một loại đĩa veo laze VCD khác cũng phát triển trên đĩa CD như vậy, tuy có thể phát tiết mục hình ảnh, song dung lượng thông tin tích trữ không lớn như của DVD. Cũng một tấm đĩa, VCD chỉ có thể phát một bộ phim, còn DCD thì có thể phát tới vài bộ phim. Hơn nữa, chất lượng hình ảnh của DVD cũng vượt trội hơn cả, không có thứ gì sánh được.
Nguyên lí công tác của việc phát tiết mục hình ảnh của đĩa DVD trên máy DVD cũng giống như máy CD hoặc VCD, đều là lợi dụng chùm tia laze tiến hành quét lên các vết khắc trên đĩa, căn cứ vào sự biến đổi của chùm tia laze phản xạ trở lại từ những vết khắc, thông qua sự chuyển đổi quang điện, làm cho tín hiệu ánh sáng biến thành tín hiệu điện, rồi lại thông qua xử lí kĩ thuật số, phát ra hình ảnh và âm thanh trên màn huỳnh quang và trong loa.
Vết khắc trên đĩa laze được chế tạo ra khi ghi lại tiết mục trong xưởng sản xuất. Nó có liên quan với độ lớn của lượng thông tin khi ghi để chế tạo. Vết khắc càng nhiều, lượng thông tin lưu giữ càng lớn, số lượng tiết mục phát ra cũng càng nhiều. Vì vậy, nó chỉ có thể phát ra tiết mục âm thanh, chứ không thể phát ra tiết mục hình ảnh. Vì lượng thông tin cần thiết đại diện cho tiết mục âm thanh âm nhạc. Còn vết khắc trên đĩa VCD, tuy có phong phú hơn so với đĩa CD, đã có thể phát ra tiết mục hình ảnh, song so với DVD thì kém nhiều. Đó là vì trên đĩa DVD đã sử dụng nhiều biện pháp kĩ thuật, lại còn áp dụng kĩ thuật nén số tiên tiến nữa.
Nhìn lên bề mặt đĩa DVD thấy sáng bóng như gương, tựa hồ không khác gì đĩa CD hoặc VCD. Nhưng ở dưới kính hiển vi có thể nhận ra, vết khắc của nó vừa mảnh vừa dày đặc, mức độ tinh tế của nó vượt quá đĩa CD và đĩa VCD rất nhiều. Hơn nữa, mặt khắc chế của vết khắc, từ một đường đơn chiếc biến thành hai đường trên dưới, hình thành mặt phản xạ chùm tia laze hai lối đi. Đồng thời, ở mặt sau của đĩa, cũng khắc chế vết khắc, làm cho lượng thông tin tích trữ trên một tấm đĩa gia tăng gấp bội. Để có thể đọc ra vết khắc tinh tế dày đặc trên đĩa DVD, chùm tia laze chiếu lên vết khắc cũng được xử lí cho càng hẹp, càng mảnh, làm cho chùm tia laze có thể tụ tiêu một cách chuẩn xác trên mặt vết khắc.
Ngoài ra, khi chế tác đĩa DVD, các mặt xử lí thông tin, cũng áp dụng kĩ thuật nén số tiên tiến hơn. Nó có thể căn cứ vào trạng thái của hình ảnh, phân biệt ra sự biến hoá chậm chạp yên lặng. Sau đó, căn cứ vào đặc điểm lượng thông tin chứa đựng trong trường hợp sau thì nhỏ, tiến hành nén với mức độ khác nhau, rồi lần lượt khắc chế lên đĩa. Chứ không giống như kiểu khắc chế đĩa VCD, bất kể bức tranh hình ảnh là đơn điệu yên tĩnh, hay là hoạt động nhộn nhịp, đều tiến hành nén với mức độ như nhau, khắc chế một cách dàn đều lên đĩa. Qua đó làm cho đĩa với diện tích có hạn được mở rộng đầy đủ, gia tăng lượng lưu giữ thông tin của đĩa.
Song, khi phát tiết mục hình ảnh bằng DVD, phải sử dụng tivi có độ nét cao, thùng loa và đầu máy phát chất lượng âm thanh cao nhiều kênh thì mới thể hiện hết được sức hấp dẫn kì lạ của DVD.
Từ khoá: Laze; Kĩ thuật nén số; Đĩa hát laze (CD); Đĩa veo laze (VCD); Đĩa veo laze dạng số (DVD).
225. Đồ điện logic mờ dùng trong nhà là gì?
Trên các đồ điện dùng trong nhà, có cái chuyển mạch điều khiển các loại chức năng. Chức năng càng nhiều, chuyển mạch điều khiển cũng càng nhiều, khi thao tác rất không tiện lợi. Vả lại, chỉ hơi sơ ý, bấm nhầm một chuyển mạch điều khiển thì sẽ ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của đồ điện. Vì vậy, khi thao tác cần phải hết sức chú ý, không được qua loa đại khái.
Song, những đồ điện dùng trong nhà được thiết kế theo kĩ thuật ứng dụng logic mờ, cũng tức là đồ điện mờ dùng trong nhà, chỉ cần mở cái chuyển mạch tổng của nguồn điện, không cần thiết phải bấm các chuyển mạch điều khiển chức năng từng cái từng cái một, nó sẽ dựa theo yêu cầu cụ thể của người sử dụng, tiến hành công việc một cách tự động. Vì trong đồ điện dùng trong nhà có lắp bộ truyền cảm của các loại chức năng và máy tính nhỏ, tích trữ cả một lô các chương trình máy tính được lập theo lí thuyết logic mờ, mô phỏng các thói quen thao tác của con người khi sử dụng đồ điện gia dụng, tự động tiến hành phán đoán, xử lí, và còn có "trí năng" học tập, ghi nhớ và chọn tối ưu. Khi nó làm việc, tuy thông tin nhận được từ trong các bộ truyền cảm khác nhau có chứa nhiều nhân tố không xác định, nhưng qua sự điều khiển chương trình máy tính, đều có thể tham gia vận hành với nhân tố xác định. Nó không cần con người trực tiếp đưa ra mệnh lệnh, bấm các loại chuyển mạch chức năng tiến hành thao tác. Cho dù trong khi nó vận hành có xảy ra tình huống khác thường, máy tính cũng sẽ tự động đưa ra mệnh lệnh, nhanh chóng tiến hành điều chỉnh, không gây hư hại cho điện gia dụng.
Có một loại máy giặt mờ, chỉ cần bạn mở công tắc nguồn điện, bỏ quần áo bẩn vào là nó tự động làm việc ngay. Vì các bộ cảm biến trên máy giặt sẽ nhập từng thông tin một về số lượng mức độ bẩn v.v. của quần áo cần giặt vào máy tính. Máy tính sẽ từ trong cả trăm chương trình trong bộ nhớ chọn ra một loạt chương trình tối ưu thích hợp với tình hình ấy, xác định chủng loại và số lượng bột giặt, lượng nước giặt, thời gian giặt, số lần tẩy giặt, phương thức dòng nước v.v. để điều khiển các loại chuyển mạch chức năng, rơle thời gian và tốc độ quay của thùng giặt v.v., làm cho máy giặt tự động làm việc, cho đến khi quần áo bẩn được giặt sạch.
Đồ điện mờ dùng trong nhà khi làm việc không hề "mù mờ" chút nào cả, vì sao lại gọi chúng là đồ điện mờ nhỉ? Đó là vì trong quá trình thiết kế chúng, người ta đã vận dụng lí thuyết logic mờ trong toán học.
Ngay từ những năm 20 của thế kỉ XX, đã có nhà khoa học nêu ra lí thuyết của logic mờ. Trong thế giới hiện thực, giới hạn nhiều vấn đề không rõ ràng, thậm chí còn rất mù mờ, như "người đàn ông cao lớn", cao bao nhiêu mới coi là cao lớn? - không hề có một con số xác định nào cả. Vì mục đích thực tế, con người cần nghiên cứu những vấn đề không rõ ràng, mù mờ đó để rõ ràng hoá nó, nhằm thu được kết quả có ích. Logic được dùng trong việc nghiên cứu này gọi là logic mờ.
Đến những năm 70 của thế kỉ XX, logic mờ đã phát triển thành một môn kĩ thuật lôgic mờ chuyên môn, ứng dụng vào sản xuất công nghiệp. Về sau, loại kĩ thuật này được ứng dụng rất nhanh vào đồ điện dùng trong nhà và thu được sự phát triển nhanh chóng. Tivi màu, tủ lạnh, đồ điện nhà bếp, máy hút bụi, máy làm sạch không khí, thiết bị âm thanh v.v. đều đã trở thành thành viên mới trong đồ điện mờ dùng trong nhà.
Từ khoá: Đồ điện mờ;Dùng trong nhà; Logic mờ.