10 vạn câu hỏi vì sao vật lý

Phần 81 - 90

10 vạn câu hỏi vì sao vật lý

81. Vì sao phích nước nóng giữ được nhiệt?

Rót một cốc nước sôi, để nó trong không khí, chẳng mấy chốc cốc nước đó liền nguội đi. Nhưng, nếu cho nước sôi vào trong phích nước nóng thì có thể duy trì nhiệt độ của nước sôi một thời gian khá dài.

Phích nước nóng giữ được nhiệt là do đặc trưng cấu tạo của ruột phích quyết định. Ruột phích do hai lớp vỏ thuỷ tinh mỏng tạo thành, rút không khí giữa hai lớp vỏ đi và tráng một lớp thuỷ ngân mỏng lên một phía của ruột phích. Ruột phích có một cái miệng phích nhỏ hơn nhiều so với "thân mình" của nó. Trên miệng phích có thể đậy bằng cái nút gỗ mềm. Chính là nhờ có cấu tạo như vậy làm cho phích nước nóng thành cái phích giữ nhiệt "ruột gan nóng, vẻ ngoài lạnh".

Khi cho nước sôi vào phích xong, cấu tạo của ruột phích làm cho nhiệt lượng của nước không thể truyền đi bằng phương thức thông thường. Một là đối lưu nhiệt bị cắt đứt. Không khí bị tăng nhiệt trong phích sẽ tìm mọi cách để thoát ra ngoài, còn không khí lạnh bên ngoài cũng tìm mọi kẽ hở để chui vào trong phích. Nhưng do cổ phích tương đối nhỏ, lại bị nút gỗ mềm đậy kín lại, vì vậy lối đi duy nhất của đối lưu nhiệt bị cắt đứt. Hai là dẫn nhiệt bị cản trở. Tuy không khí dẫn nhiệt kém vật phẩm bằng kim loại, song nhiệt lượng trong ruột phích vẫn có thể thông qua vỏ thuỷ tinh ngoài mà truyền cho không khí ở ngoài phích. Song do ruột phích có hai lớp vỏ thuỷ tinh, ở giữa lại được rút thành chân không, cho nên không khí - vật môi giới dẫn nhiệt, trở nên hết sức thưa loãng, con đường dẫn nhiệt cũng bị cản trở. Ba là bức xạ nhiệt bị ngăn chặn triệt để. Mùa đông, dưới ánh Mặt Trời, chúng ta sẽ cảm thấy đôi chút ấm áp. Đó chính là do bức xạ nhiệt của ánh sáng Mặt Trời gây nên. Vì ruột phích có tráng một lớp thuỷ ngân mỏng, nên bức xạ của nhiệt lượng bị lớp thuỷ ngân phản xạ mà phải chịu nằm lại trong ruột phích. Điều đó làm cho con đường của bức xạ nhiệt cũng bị ngăn chặn triệt để.

Trường hợp lí tưởng là, sau khi ruột phích cắt đứt ba loại phương thức truyền nhiệt, nước nóng trong phích có thể giữ nhiệt mãi mãi. Nhưng trong thực tế, hiệu quả cách nhiệt của phích nước nóng không hoàn thiện đến như vậy, cho nên sự giữ nhiệt của phích lúc nào cũng có một giới hạn về thời gian. Vượt quá giới hạn đó, phích sẽ không còn giữ được nhiệt nữa.

Từ khoá: Phích nước nóng; Giữ nhiệt; Đối lưu nhiệt; Dẫn nhiệt; Bức xạ nhiệt.

82. Vì sao khi mỡ bốc cháy không được dùng nước để dập tắt?

Gỗ bị bắt lửa, có thể dùng nước tạt lên để dập lửa đi. Đó là kiến thức thông thường mà ai cũng biết.

Nhưng, chảo mỡ bắt lửa hoặc thùng xăng, bình dầu bắt lửa thì nhất thiết không được dội nước lên, vì lúc ấy nước chẳng những không dập được lửa, mà ngược lại còn làm cho ngọn lửa trở nên lớn hơn.

Vì sao nước có thể dập tắt lửa trên gỗ, lại không thể dập tắt lửa trong chảo mỡ nhỉ?

Đó là vì sự cháy cần đến oxi và nhiệt độ nhất định. Khi gỗ bị cháy, dội nước vào gỗ đang cháy vừa có thể cách li triệt để sự tiếp xúc của gỗ với không khí, lại có thể làm cho nhiệt độ của gỗ hạ xuống. Thế là lửa bị dập tắt ngay. Khi chảo mỡ bắt lửa, do mật độ (khối lượng riêng) của mỡ nhỏ hơn nước, nếu tạt nước vào chảo mỡ, nước lập tức chìm xuống dưới lớp mỡ, đẩy lớp mỡ nổi lên trên, vừa không sao cách li với không khí, lại không có tác dụng giảm thấp nhiệt độ, cho nên nước không dập tắt được lửa trong chảo mỡ. Làm không khéo thì mỡ còn có thể trào ra ngoài chảo, lan ra bên ngoài, làm tăng diện tích tiếp xúc của mỡ với không khí, sẽ càng cháy lớn.

Vậy khi chảo mỡ bắt lửa, phải dùng biện pháp gì để dập tắt? Phương pháp trực tiếp nhất là đậy ngay vung lên chảo, làm cho mỡ và không khí cách li triệt để, lửa cũng sẽ tắt ngay.

Nếu thùng xăng bắt lửa, đội viên cứu hoả thường sử dụng bình cứu hoả (đựng bọt dập lửa) để dập lửa. Đó là vì bình này phun ra một lượng lớn chất khí cacbon đioxit. Cacbon đioxit vừa không tự cháy, cũng không trợ cháy, vả lại nặng hơn không khí, sẽ bao bọc thùng xăng rất nhanh, làm cho xăng và không khí cách li triệt để, qua đó mà kịp thời dập tắt lửa.

Từ khoá: Sự cháy; Bình cứu hoả; Cacbon đioxit.

83. Vì sao nước rơi vào chảo mỡ lại phát ra tiếng “lép bép” ?

Khi vô ý để một giọt nước rơi vào chảo mỡ nóng, trong chảo liền lập tức sinh ra một tràng tiếng nổ "lép bép lục bục", và có váng mỡ bắn ra. Nếu váng mỡ bắn vào tay hoặc vào mặt thì còn có thể gây bỏng rộp lên nữa cơ đấy!

Loại tiếng nổ này hoàn toàn là do nước, trong trạng thái nhiệt độ cao, bị biến đổi đột ngột mà sinh ra. Quá trình biến đổi đầu tiên là nước biến thành hơi nước. Nói chung chảo mỡ nóng thường là có nhiệt độ trên 200°C (điểm sôi của mỡ). Khi giọt nước rơi vào chảo mỡ, ở nhiệt độ cao như vậy, giọt nước lập tức bốc hơi, biến thành hơi nước. Quá trình thứ hai là giọt chất lỏng nhỏ bao bọc hơi nước xảy ra nổ tung. Do hơi nước nhẹ hơn mỡ, còn giọt nước lại nặng hơn mỡ, vì vậy quá trình bốc hơi của nước, sau khi hoàn thành ở bên dưới lớp mỡ, bong bóng hơi nước liền bắt đầu nổi lên. Một khi lên đến mặt mỡ, sự chênh lệch áp suất trong và ngoài của bong bóng khí liền dẫn tới sự nổ tung của bong bóng khí, làm bắn váng mỡ ra.

Hiểu rõ nguyên lí này rồi, khi đặt chảo mỡ xào thức ăn, chúng ta phải chú ý thật cẩn thận!

Từ khoá: Bốc hơi; Bong bóng khí.

84. Mùa đông, vì sao hơi trong miệng thở ra có màu trắng?

Các vận động viên sau khi dốc sức chạy nhảy, thường há to miệng thở ra gấp gáp. Bạn đã để ý đến điều này chưa? Hơi thở ra của họ có màu trắng. Hiện tượng này đặc biệt rõ rệt vào mùa đông ở ngoài trời. Không khí vốn trong suốt không có màu sắc, vì sao hơi thở của họ lại có màu trắng nhỉ?

Không khí xung quanh chúng ta do sự hỗn hợp của nhiều loại nguyên tố chất khí mà thành. Trong đó chủ yếu có oxi và nitơ. Ngoài ra do trên mặt đất có nhiều sông hồ ao đầm, nước trong các nguồn nước đó sau khi qua bốc hơi biến thành hơi nước, cũng bay hết vào không khí. Có lúc chúng ta cảm thấy không khí rất ẩm thấp, đó là vì thành phần hơi nước trong không khí quá nhiều. Nước có thể biến thành hơi nước bay vào trong không khí, thế thì hơi nước trong không khí có thể ngưng kết trở lại thành hạt nước không nhỉ? Chúng ta hãy thực hiện một quan sát nhỏ để trả lời cho câu hỏi này. Trong mùa đông rét buốt, chúng ta đóng chặt các cửa ra vào và cửa sổ nhà ở lại và giữ ấm trong phòng. Không bao lâu chúng ta sẽ nhận thấy, trên kính cửa sổ bám đầy các hạt nước nhỏ. Những hạt nước nhỏ này là hơi nước trong không khí ở trong phòng, sau khi tiếp xúc với kính cửa sổ lạnh giá ngưng kết lại mà thành.

Hơi từ trong miệng chúng ta thở ra, có không ít hơi nước. Khi những chất khí này mang theo nhiệt độ hầu như xấp xỉ với nhiệt độ cơ thể người đi vào không khí xung quanh, số hơi nước trong đó gặp phải môi trường bên ngoài tương đối lạnh, liền ngưng kết lại thành nhiều hạt nước nhỏ li ti có dạng sương mù màu trắng. Nhiệt độ bên ngoài càng thấp, những hạt nước nhỏ ngưng kết càng nhiều, dạng sương mù màu trắng càng rõ rệt. Vào mùa hè, chúng ta cũng có thể quan sát thấy hiện tượng tương tự. Có điều, chất khí phun ra không phải là ra từ mồm của người, mà là từ siêu nước đang sôi. Khi nước sôi rồi, trong siêu nước sẽ có một lượng lớn hơi nước phụt ra. Nhiệt độ của hơi nước này xấp xỉ 100°C. Một khi bay vào môi trường bên ngoài ở nhiệt độ trong phòng, hơi nước đó cũng sẽ ngưng kết thành dạng sương mù màu trắng. Nếu chúng ta nhất thời quên tắt bếp, hơi nước do cả siêu nước sinh ra liền toả khắp gian phòng, làm cho gian phòng như bị sương mù trắng bao phủ vậy.

Từ khoá: Bốc hơi; Hơi nước; Ngưng kết.

85. Những cột băng dưới mái hiên hình thành như thế nào?

Sau khi tuyết rơi, trong lúc trên mái nhà hãy còn phủ tuyết trắng khá dày, người ta thường có thể nhận thấy, ở chỗ râm tối dưới mái hiên có treo từng cột từng cột băng thô mảnh không như nhau. Những cột băng ấy hình thành như thế nào nhỉ?

Trong những ngày đẹp trời, sau khi tuyết rơi, tuyết tích tụ lại sẽ hấp thu năng lượng của ánh sáng Mặt Trời mà bắt đầu tan chảy. Nhưng khi ấy nhiệt độ không khí vẫn có thể còn dưới 0°C. Người ta thường cảm thấy "tuyết rơi không rét, tuyết tan rét" chính là vì lẽ đó.

Nếu nhiệt độ không khí ở vào 1 – 2°C, tuyết tích lại trên mái nhà ở phía ngoảnh về Mặt Trời có thể trực tiếp nhận được chiếu xạ của Mặt Trời, liền tan chảy trước. Khi nước tuyết tan chảy men theo mái hiên chảy xuống chỗ râm tối của mái hiên do quay lưng lại với Mặt Trời, nhiệt độ không khí xung quanh có thể vẫn ở dưới điểm đóng băng, nước tuyết chảy xuống đương nhiên lại sẽ đông cứng lại. Khi giọt nước chưa kịp rơi tới đất thì đã đông thành băng rồi. Một giọt, hai giọt, ba giọt... nước kế tiếp không ngừng đông lại với nhau, liền hình thành ra cột băng nhỏ treo dưới mái hiên nhà.

Từ khoá: Tan chảy; Đông cứng.

86. Vì sao băng bao giờ cũng đóng trên mặt nước?

Nước có thể đóng băng, đó là hiện tượng thường xảy ra trong thiên nhiên. Sau khi quan sát kĩ, bạn có thể nhận thấy, băng bao giờ cũng đóng trên bề mặt của nước. Mùa đông ở phương Bắc giá rét, trên mặt sông ngòi hoặc hồ đầm thường bị phủ một lớp băng khá dày, cho dù đã đến thời kì băng tan chảy đầu xuân, vẫn có thể thấy một số băng trôi lững lờ xuôi theo dòng nước.

Do bề mặt của nước trực tiếp tiếp xúc với không khí bên ngoài, cho nên khi nhiệt độ bên ngoài rất thấp, bề mặt của nước bắt đầu lạnh đi trước tiên. Mật độ (khối lượng riêng) của nước bị lạnh trở nên lớn, liền chìm xuống; còn mật độ nước có nhiệt độ tương đối cao ở dưới đáy lại tương đối nhỏ, nên trồi lên. Hiện tượng trồi lên trụt xuống của nước như thế này là sự đối lưu. Tuy nhiên, nước là loại vật chất có "tính kì quặc" khác với mọi thứ. Đó tức là khi nhiệt độ bên ngoài lạnh đến 4°C, mật độ của nước lớn nhất, hiện tượng đối lưu của nước không xảy ra nữa. Nếu nhiệt độ bên ngoài tiếp tục hạ xuống đến 0°C, nước ở bề mặt liền bắt đầu đóng băng. Khi nước đóng băng, thể tích của nó đại để tăng lên một phần mười, qua đó mà mật độ của băng nhỏ hơn nước. Vì vậy, những tảng băng đông kết bao giờ cũng nổi trên mặt nước. Do lúc ấy, không có đối lưu, bề mặt tuy đã lạnh đến 0°C, mà nước ở dưới đáy vẫn có thể giữ ở mức xấp xỉ 4°C.

Chính do tính chất này của nước mà con người trong mùa băng tuyết đầy trời, vẫn có thể chọc thủng lớp băng trên mặt sông để câu cá.

Từ khoá: Nước; Băng; Mật độ; Đối lưu.

87. Vì sao nói băng khô không phải là băng thông thường?

Băng khô cũng là băng, nhưng nó không phải là thứ băng thông thường. Băng khô và băng thông thường có gì khác nhau nhỉ?

Nói băng khô là băng, vì nó cũng là một loại vật chất ở thể rắn có hình dạng, có kích thước. Song, băng thông thường là vật chất thể rắn hình thành bởi nước ở áp suất 101,3 kPa (1 atm) và 0°C; còn băng khô hình thành bởi cacbon đioxit ở nhiệt độ thấp, trong điều kiện nhiệt độ ở –78°C. Loại băng khô hình thành từ cacbon đioxit này có mật độ lớn hơn băng nói chung, vì vậy băng khô cho vào nước sẽ chìm xuống, còn những cục băng thông thường thì nổi trên mặt nước.

Một đặc trưng khác của băng khô là "khô". Trong bất kì điều kiện nào, băng khô cũng đều không ẩm ướt, và cũng sẽ không làm ẩm ướt các vật thể xung quanh. Đó là vì một khi băng khô bị nóng lên thì sẽ trực tiếp biến thành cacbon đioxit ở thể khí, chứ không trải qua giai đoạn thể lỏng. Còn băng thông thường khi bị nóng lên sẽ "toát mồ hôi" trước đã, rồi mới đến toàn thân ẩm ướt, sau cũng tan chảy toàn bộ thành nước ở thể lỏng. Chỉ khi đun nóng nước ở thể lỏng đến điểm sôi (100°C) trở lên, băng thông thường mới chuyển biến thành hơi nước ở thể khí.

Băng khô là một loại vật chất làm lạnh có công dụng rộng rãi. Dùng băng khô để bảo quản lạnh thực phẩm, chẳng những không làm ẩm ướt thực phẩm mà cacbon đioxit thể khí do băng khô hình thành lên còn có thể ức chế sự sinh trưởng của vi sinh vật; đạt đến mục đích làm cho thực phẩm tươi nguyên. Chức năng làm lạnh của băng khô còn làm cho nó được liệt vào loại nguyên liệu dập tắt lửa có hiệu quả, nhất là khi ném nó vào chất dầu mỡ đang cháy, một lượng lớn cacbon đioxit do băng khô giải phóng ra sẽ cắt đứt hoặc bịt kín con đường của oxi rất cần cho sự cháy, có thể nhanh chóng dập tắt được lửa. Trong quá trình làm mưa nhân tạo, trong việc tạo dựng cảnh tượng mây trắng trên sân khấu y như thật, băng khô cũng giữ một vai trò chủ yếu trong các công việc đó.

Từ khoá: Băng; Băng khô; Đioxit cacbon.

88. Vì sao quả cầu tuyết càng lăn càng lớn?

Quả cầu tuyết có thể càng lăn càng lớn, thường thường được người ta giải thích là: quả cầu tuyết dựa vào tác động của lực dính, trong quá trình lăn quay, tuyết trên mặt đất dính nhập vào mà tạo nên. Song trên thực tế lại không hoàn toàn như vậy. Trong mùa đông giá rét, quả cầu tuyết và bản thân cánh tuyết trên mặt đất đều không ẩm ướt. Giữa chúng với nhau chẳng có tác động dính bao nhiêu. Thế thì nguyên nhân chủ yếu của quả cầu tuyết càng lăn càng lớn rốt cuộc là gì nhỉ?

Hoá ra là, chỉ có trong điều kiện áp suất khí quyển tiêu chuẩn thì băng tuyết mới bắt đầu tan chảy ở 0°C. Các thực nghiệm khoa học cho thấy, khi băng chịu một áp suất lớn hơn, điểm tan chảy của nó liền hạ thấp tương ứng. Khi áp suất tăng lên gấp 135 lần áp suất khí quyển tiêu chuẩn, băng tuyết có thể tan chảy ở –1°C. Chính do loại đặc tính vật lí đó của băng đã làm cho quả cầu tuyết trong quá trình lăn càng lăn càng to ra.

Khi chúng ta vừa bắt đầu vê tuyết mềm xốp cho chặt lại, làm tăng áp lực giữa các cánh tuyết, điểm tan chảy của tuyết hạ xuống. Trong điều kiện nhiệt độ ngoài trời thấp hơn 0°C, tuyết cũng có thể tan thành nước. Nhưng một khi thủ tiêu loại áp lực này, nước ở nhiệt độ thấp hơn 0°C lại sẽ đóng băng trở lại. Như vậy, vê vê nặn nặn nắm tuyết trong tay, các cánh tuyết bị nặn thành một quả cầu tuyết. Khi quả cầu tuyết lăn quay trên mặt đất, những cánh tuyết bị nó đè xuống cũng sẽ tan chảy trước, rồi mới kết băng, và dính vào trên quả cầu tuyết. Theo đà lăn quay của quả cầu tuyết, các cánh tuyết trên mặt đất dính vào quả cầu ngày càng nhiều, quả cầu tuyết càng lăn càng lớn.

Từ khoá: Tuyết; Tan chảy;Điểm tan chảy; Dính vào.

89. Vì sao tuyết bẩn tan chảy trước tuyết sạch?

Chúng ta biết rằng, tuyết tan chảy nhanh hay chậm là do nhiệt lượng mà tuyết hấp thu được nhiều hay ít quyết định. Tuyết bẩn có thể hấp thu càng nhiều nhiệt lượng đến từ ánh sáng Mặt Trời hơn là tuyết sạch, vì vậy tuyết bẩn thường là tan chảy sớm hơn tuyết sạch.

Vì sao tuyết bẩn có thể hấp thu nhiệt lượng tương đối nhiều nhỉ? Thì ra, bất cứ vật thể nào khi được ánh Mặt Trời chiếu tới đều chỉ có thể hấp thu một phần ánh sáng và một phần nhiệt lượng, ánh sáng và nhiệt lượng còn lại bị vật thể phản xạ trở lại. Vật thể hấp thu ánh sáng và nhiệt lượng càng nhiều, mắt chúng ta nhìn vào liền cảm thấy càng tối, càng đen; ngược lại, vật thể phản xạ càng nhiều ánh sáng và nhiệt lượng, mặt chúng ta nhìn vào thấy càng sáng, càng trắng, Mùa đông, người ta thường dùng những từ "một vùng trắng mênh mông" và "trắng xoá" để miêu tả cảnh tuyết ngoài đồng. Tuyết sạch có màu trắng tinh và sáng, vừa hay cho thấy rõ nó có năng lực phản xạ rất mạnh, cho nên dưới ánh sáng Mặt Trời chiếu tới, ánh sáng và nhiệt lượng phản xạ tương đối nhiều, không dễ tan chảy. Ngược lại, tuyết bẩn nhìn vào thấy "đen thủi đen thui", không được trắng tinh như tuyết sạch. Vì vậy năng lực hấp thu ánh sáng và nhiệt lượng của nó lớn hơn nhiều so với tuyết sạch. Khi bị ánh Mặt Trời chiếu tới, tuyết bẩn tương đối dễ tan chảy.

Mùa hè, chúng ta mặc quần áo màu trắng hoặc màu nhạt chính là để cho ánh Mặt Trời phản xạ ra nhiều nhất có thể được, tránh cho thân thể bị Mặt Trời hun nóng. Còn vào mùa đông, để nhận được càng nhiều ánh sáng và nhiệt đến từ Mặt Trời, người ta mặc quần áo đậm màu, thậm chí màu đen, làm cho thân thể giữ được ấm áp.

Từ khoá: Tuyết; Tan chảy; Phản xạ của ánh sáng; Hấp thu của ánh sáng.

90. Vì sao dùng nồi áp suất dễ nấu chín thức ăn?

Nồi áp suất, là loại nồi khi đun thì áp suất trong nồi rất cao. Vì sao trong điều kiện áp suất cao, thức ăn trong nồi dễ nấu chín nhỉ?

Trong điều kiện áp suất khí quyển tiêu chuẩn, điểm sôi của nước là 100°C. Dùng nồi thông thường nấu thức ăn, nhiệt độ trong nồi không thể cao hơn 100°C. Cho lửa to lên hoặc kéo dài thời gian đun nấu, kết quả của nó chỉ có thể làm cho nước từ thể lỏng biến thành thể khí, tức xảy ra bốc hơi. Nhiệt độ của nước không thể vượt quá 100°C. Đó là vì các phân tử nước ở 100°C đã có năng lượng đủ để đánh bật sự ngăn cản của phân tử không khí mà trở thành hơi nước. Nhưng nếu tăng cao áp suất của không khí xung quanh, thế thì phân tử nước phải có năng lượng lớn hơn mới có thể vượt qua được "rào cản" của phân tử không khí mà bay vào được trong không khí, biến thành hơi nước. Năng lượng của phân tử nước hoàn toàn phụ thuộc vào nhiệt độ của bản thân nước. Nhiệt độ càng cao, năng lượng của phân tử nước càng lớn. Vì vậy, muốn cho nước trong nồi sôi ở nhiệt độ điểm sôi cao hơn, nấu chín thức ăn nhanh hơn thì tất phải tăng cao khí áp trong nồi.

Trên mặt đất, vật thể chịu một áp suất khí quyển khoảng 101,3 kPa. Từ mặt đất đi sâu xuống lòng đất, độ sâu cứ tăng 1000 m, theo đà áp suất tăng lên, điểm sôi của nước liền cao lên 3°C. Trong hầm mỏ ở độ sâu 300 m, nước phải đạt tới 101°C mới có thể sôi. Nếu muốn cho nước tới 200°C mới sôi, thì áp suất trong nồi bắt buộc phải đạt đến 1418,2 kPa (14,18 at).

Lợi dụng nguyên lí kể trên, người ta đã làm ra nồi áp suất. Đặc điểm lớn nhất của nó là tính năng bịt kín tốt. Khi nước đạt tới 100°C và bắt đầu sôi, phân tử nước không làm sao chạy thoát ra khỏi nồi, làm cho khí áp trong nồi tăng dần lên. Mà sự tăng cao của khí áp lại dẫn tới việc tăng cao của điểm sôi. Thế là đồ nấu trong nồi có thể tiếp tục hấp thu nhiệt lượng. Vì vậy thức ăn dễ nấu chín. Nhiệt độ trong nồi áp suất nói chung có thể đạt tới 120°C trở lên. Ở một nhiệt độ như vậy, tinh bột dễ dàng trở thành hồ, nhờ đó gạo dễ dàng được nấu thành cơm chín. Để phòng ngừa áp suất trong nồi áp suất quá lớn dẫn tới nồi bị nổ tung, trên nắp nồi áp suất đều có lắp van an toàn. Khi áp suất trong nồi vượt quá giá trị quy định, một phần hơi nước áp suất cao liền chọc thủng van an toàn chạy thoát ra ngoài, qua đó làm cho trong nồi duy trì một áp suất nhất định.

Trong tình hình khí áp thấp, điểm sôi của nước cũng sẽ xuống thấp. Ví dụ khi đun nước trên đỉnh Everest, nước đạt tới 73,5°C thì bắt đầu sôi rồi. Ở nhiệt độ như vậy, thức ăn khó nấu chín. Vì vậy ở vùng khí áp thấp trên cao nguyên, lợi dụng nồi áp suất để nấu thức ăn là cách thức nấu nướng có hiệu quả nhất.

Từ khoá: Nồi áp suất; Sôi; Điểm sôi; Áp suất.