Chiến thắng bằng mọi giá
Chương 1 “Trở thành nhà cách mạng”
PHẦN MỘT : An Xá 1911 - 1940
Chương 1 “Trở thành nhà cách mạng”
Người lính già ngồi ở hàng ghế sau, trên chiếc ôtô cũ kỹ sản xuất từ thời Liên Xô (cũ), đưa mắt nhìn ra ngoài qua ô cửa kính khi người lái xe đi chậm lại vì những ổ gà trên con đường lầy lội. Mặt ông bình thản, không lộ chút cảm giác khó chịu nào vì đường xấu, tâm trí ông dường như đắm chìm vào kí ức. Vị cựu Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đang trở lại Pắc Bó, một địa điểm vùng cực bắc Việt Nam, chỉ cách biên giới Trung Quốc vài cây số. Đây là nơi lần đầu tiên, chính ông và Hồ Chí Minh cùng làm việc với nhau vào thời kỳ đất nước còn phải đấu tranh giải phóng khỏi ách thống trị của đế quốc Pháp. “Những kí ức đó”, sau này ông viết, “không thể phai mờ”.
Sau chuyến đi xa khỏi biệt thự rộng rãi ở Hà Nội, ông nghỉ lại một đêm tại thị xã Cao Bằng nhỏ bé. Người ta nghe thấy ông phàn nàn với giọng nhỏ nhẹ. Ngày ngắn, chóng tối, đường xấu xe đi chẳng được bao nhiêu, chứ nếu không có lẽ chuyến đi dễ chịu biết mấy! Buổi sáng lúc mọi người chuẩn bị lên đường, sương mù mùa đông hãy còn phủ kín các triền núi cao, xe tới Hòa An mà sương mù vẫn chưa tan hết. Giống như những kim tự tháp, các dãy núi đá vôi vượt lên khỏi làn sương mù nhô lên trời cao.
Vị tướng già ngước mắt nhìn lên phong cảnh xung quanh. Ông kể lại: “Có thể nói tôi thuộc từng ngọn núi, từng con thác, dòng sông, thị trấn xóm làng vùng này. Phía trước là Phia But, ngọn núi cao nhất. Trên đỉnh có một cái hồ tự nhiên. Theo truyền thuyết từ lâu lắm rồi có một nàng tiên giáng trần đã đến tắm ở đây. Không may, người hạ giới nhìn thấy và nàng tiên không thể quay về trời. Hàng năm trong mùa mưa, khi nước xuống, người dân trong vùng quả quyết đã nhìn thấy một cô gái đẹp tuyệt trần cưỡi ngựa tay cầm quạt”.
Xe ôtô dừng lại ở thôn Phai Khắt – nơi những chiến sĩ của ông đã đánh trận đầu tiên với quân Pháp. Làng xóm không mấy đổi thay. Năm 1944 cả thôn có khoảng hơn chục ngôi nhà, ngày nay chắc là gấp đôi. Tin người chỉ huy năm xưa trở về thăm bà con chẳng mấy chốc lan ra khắp làng. Đây là nơi khởi đầu binh nghiệp của ông. Bạn bè cũ ở rải rác các thôn xóm quanh vùng Nguyên Bình, Minh Tâm, Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo đều tề tựu về đây để gặp ông.
Thời đó, nhiều người cho rằng Phai Khắt chỉ là trận giao chiến đầu tiên như mọi trận khác, nhưng sau này tướng Giáp nói: “Đối với tôi, nó còn hơn thế. Năm 1941 người Pháp đến vùng này và biến ngôi nhà mới xây của đồng chí Lạc thành nơi đóng quân của quan đồn.” Ngày đó và cho đến cả hôm nay, ngôi nhà của đồng chí Lạc là ngôi nhà to nhất và kiên cố nhất. “Chính vì lẽ đó chúng tôi đã quyết định đánh trận mở màn”. Bây giờ, ở chỗ này người ta dựng một tấm bia có dòng chữ: “Phai Khắt: Khởi đầu của cuộc cách mạng. 24-12-1944”.
Võ Nguyên Giáp mỉm cười và vẫy tay qua cửa xe chào những người đến đón ông, nhiều người mặc những bộ quần áo ngày hội, màu sắc rực rỡ. Sau khi thận trọng cho xe đi qua xóm, người lái xe cho xe dừng lại trước trụ sở Ủy ban nhân dân xã. Khi ông thong thả bước xuống qua cửa xe phía sau, hai phụ nữ tiến lại gần tay ôm hoa. “Đúng là một ngày hội”. Ông tươi cười nói với mọi người xung quanh.
Nhìn kỹ đám đông, vị đại tướng cố nhìn vào khuôn mặt của những người già, hy vọng tìm được những người bạn chiến đấu năm xưa cùng mình. Ông đã trông thấy Đông Phương Quy ở vùng Dao Truyền trước đây là tiểu đội trưởng đội 3. Có cả Thu Sơn trước đây là tiểu đội trưởng đội 1 người đã chỉ huy hạ đồn Phai Khắt. Đứng gần đấy là Tiến Lực và Lê Lợi trùng tên với vị anh hùng dân tộc thế kỷ XV. Tất cả nay đều 60 – 70 tuổi và đã trở về với cuộc sống đời thường yên bình. Ông tâm sự: “Gặp lại họ, tôi không nén nổi xúc động, nuớc mắt trào ra vì vui sướng.” Họ nhắc lại những năm hào hùng và hy sinh cho cách mạng: “Đằng kia,” tay ông chỉ chuồng trâu liền kề ngôi nhà của Lạc, “chỗ kia là chỗ chúng ta đã giết tên đồn trưởng Pháp”. Một lát sau, ông quay ra xe và người lái xe lại rong ruổi trên đường đi Pắc Bó. “Không có chuyến đi này,” ông nói, vẻ trầm ngâm, “có lẽ chẳng bao giờ có dịp gặp lại tất cả anh em chiến đấu cũ”.
Khi xe đến gần Pắc Bó, lái xe nhấn ga lượn qua một vòng dọc địa điểm trong tương lai sẽ xây dựng một bảo tàng quốc gia ở đây. Khi xây xong, nơi này sẽ là nơi tưởng nhớ Hồ Chí Minh. Đây là lần thứ ba từ khi đất nước hoàn toàn giải phóng năm 1975, Võ Nguyên Giáp trở lại hang Pắc Bó. Trong cuộc viếng thăm nơi này lần thứ nhất vào tháng 4/1975, ông đã trồng cây lưu niệm để nhớ lại những năm tháng đồng bào cả nước đã biết bao cố gắng, hy sinh để giành lại độc lập và thống nhất. Lát nữa, ông sẽ trồng một cây thứ hai ở đây: ông đã mang từ vườn cây Bác Hồ trong Phủ Chủ tịch, một cây con được bọc kỹ trong giấy bóng để trồng tại nơi này.
Cuối cùng, người lái xe cho dừng xe lại. Họ đã đến nơi. Vị tướng già nhìn ra xung quanh, vẻ thân thuộc của phong cảnh nơi đây làm ông vui sướng. Chế ngự cả một vùng là núi Các Mác phủ một màu xanh tươi và gần đó tiếng róc rách của con suối được Hồ Chí Minh đặt tên là suối Lênin. Ánh nắng mặt trời vàng óng hình như chiếm cả một vùng và ánh sáng ban mai chiếu xuống suối nước trong vắt càng làm cho các tia nắng rực lên tươi rói, khiến đứng trên bờ người ta trông thấy rõ cả đàn cá tung tăng bên cạnh các hòn đá phủ rêu xanh.
Một đơn vị bộ đội đóng ở Pắc Bó chạy ùa lại chỗ xe đậu, và đi theo vị lão tướng lên hang Pắc Bó là nơi cách đây nhiều thập kỷ Hồ Chí Minh đặt đại bản doanh của cách mạng và trở thành đất thánh của Hồ Chủ tịch, Võ Nguyên Giáp và nhiều đồng chí khác. Cũng như mọi lần ông quả quyết rằng lối vào hang giống tựa tai mèo. Vừa đi vừa hồi tưởng lại quá khứ, nhớ đến Bác Hồ, ông trầm ngâm nghĩ lại thấy đời hoạt động của Hồ Chí Minh cứ mười năm một lại đánh dấu bằng những sự kiện quan trọng. Năm 1911, 20 tuổi, chàng trai Nguyễn Tất Thành – sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh – rời bến Nhà Rồng ở Sài Gòn, xin một chân rửa bát rồi phụ bếp trên một chiếc tàu chở hàng của Pháp. Mười năm sau, 30 tuổi Nguyễn Tất Thành trở thành Nguyễn Ái Quốc, tham gia Đại hội Tours thành lập Đảng Cộng sản Pháp và kiên quyết đấu tranh để chấm dứt chế độ thuộc địa ở Việt Nam. Lại mười năm sau nữa, 40 tuổi, Nguyễn Ái Quốc với cái tên mới Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Ở tuổi 50, từ Trung Quốc trở về Việt Nam và sau khi cách mạng thành công vào tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chính ở thời kỳ này, hai người: Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp gặp nhau. Giờ đây, bước đi trong ánh nắng ấm áp, nhìn bất kể nơi đâu cũng khiến vị đại tướng nhớ tới Bác Hồ.
Đi qua cây lưu niệm do chính tay ông trồng trong chuyến viếng thăm năm 1975 nay cành lá sum suê tươi tốt, ông nhớ lại lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trồng cây nào phải chăm sóc cây ấy thì cây mới phát triển”. Ông nhìn sang bên kia con suối, chỗ kia là bụi cây nơi Hồ Chí Minh thường ngồi câu cá. Hiếm khi cá cắn câu, nhưng khi câu được cá Bác Hồ thường thả xuống nước.
Võ Nguyên Giáp bước lên cây cầu nhỏ qua suối Lênin và tiến dần đến cửa hang, ông nhớ lại: “Chúng ta đã chọn hang này vì nó biệt lập hẳn với xóm làng và kín đáo.” Năm 1979, đất đá sạt lở lấp kín lối đi vào hang nhưng người ta vẫn đọc được dòng chữ “8/2/1941” đánh dấu ngày Bác Hồ từ Trung Quốc trở về nước sau thời gian dài bôn ba đầy hiểm nguy.
Võ Nguyên Giáp kể lại: thuở ban đầu đó, ông nóng lòng sốt ruột như thế nào muốn bắt đầu ngay cuộc đấu tranh cách mạng chống lại thực dân Pháp. Ông nhớ lại một đêm giá lạnh, Hồ Chí Minh mặc bộ đồ chàm như ông già miền sơn cước, ngồi bên bếp lửa cùng với những người khác: Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Phạm Văn Đồng nói về tương lai. Ông nhớ như in những lời dạy của Bác Hồ: “Trong khoảng 5 năm nữa, cách mạng sẽ thành công và tiền đồ sẽ tỏa sáng. Tôi chỉ muốn một điều: giải phóng hoàn toàn đất nước và mọi người sẽ có cuộc sống no đủ”.
Với những lời lẽ mộc mạc, Hồ Chí Minh đã làm cho ai cũng hiểu được những mục tiêu phức tạp của cách mạng. Một trong những người có mặt hôm đó – Võ Nguyên Giáp không nhớ chắc chắn là ai – đã hỏi ông Hồ: “Làm sao có thể tiến hành cuộc cách mạng mà không có vũ khí và chúng ta kiếm đâu ra súng?” Bác Hồ đã trả lời: “Phải dựa vào sức mình là chính cộng với một số viện trợ từ bên ngoài. Tất cả đều do dân, vì dân. Dân trước, súng sau. Có dân là có tất cả”. Đó là một chủ đề mà Hồ Chí Minh sau đó là Võ Nguyên Giáp luôn luôn nhấn mạnh: “Phải dựa chắc vào dân. Dựa chắc vào dân thì không kẻ địch nào tiêu diệt được ta”. Bây giờ trở lại thăm Pắc Bó, Võ Nguyên Giáp vẫn nhớ những câu nói của Bác Hồ. “Đó là một ý tưởng giản dị nhưng không dễ gì mà theo được”.
Lần cuối cùng đứng trên mảnh đất Pắc Bó, Võ Nguyên Giáp nhớ lại toàn bộ cuộc đời đã đi qua. Sau này ông viết: “Đi theo con đường Bác Hồ đã vạch ra, chúng ta đã đánh bại bọn xâm lược và giành được độc lập thống nhất. Đi theo con đường đó chúng ta sẽ có văn minh, hạnh phúc, trở thành một nước hùng mạnh và xây dựng một xã hội trong đó sự phát triển tự do của con người là sự phát triển của tất cả mọi người.Con suối Pắc Bó mang tên Lênin tiếp tục chảy.”
Trong Kinh Thánh, Luke đã viết: “… khi trẻ người ta sẽ thấy tầm nhìn, khi già người ta sẽ mơ những giấc mơ.” Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã sống một cuộc đời làm được trọn vẹn hai điều đó. Khi còn trẻ, tiềm năng của đất nước đã khơi dậy cảm hứng cho ông và ông trở thành một phần tầm nhìn đó. Trở lại Pắc Bó lúc về già, ông mơ về những năm tháng hào hùng đã qua đi từ lâu. Không có những cố gắng của ông có lẽ sẽ không bao giờ có được những thành tựu như hôm nay. Trong suốt thời gian dài từ năm 1944 đến năm 1980, bản thân ông đã chống Nhật, chống Pháp rồi chống Mỹ, đánh tan đội quân tay sai Mỹ ở miền Nam Việt Nam, chống trả quân phản động Campuchia và cuộc xâm lược biên giới phía Bắc. Ông thử nghiệm các ý tưởng về chiến tranh và cách tiến hành cuộc chiến chống lại hai thế lực nước ngoài hùng mạnh đã lần lượt chiếm đóng đất nước. Trong cả hai lần, ông bước ra khỏi cuộc chiến đều với tư thế của người chiến thắng. Tuy nhiên, trước đó ông không hề được đào tạo để làm nhiệm vụ chỉ huy quân đội. Chỉ nghiên cứu kỹ lưỡng lịch sử quân sự và những trải nghiệm thực tiễn của bản thân đã dẫn dắt ông trở thành người có vai trò nổi bật trong các sự kiện lớn của thế giới hiện đại và lịch sử Việt Nam.
Võ Nguyên Giáp bắt đầu thấy những biến đổi xuất hiện tại Việt Nam. Đầu thế kỷ XX, trong ba miền của Việt Nam là Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Nam Kỳ, Trung Kỳ là nơi chịu ảnh hưởng của tàn dư phong kiến, nhưng lại là vùng vất vả nhất đối với người Pháp, đặc biệt nặng nề hơn cả là một số tỉnh miền Trung. Đáng lo ngại nhất là tỉnh Quảng Bình với lịch sử kháng chiến dai dẳng nhất thời kỳ Cần Vương chống Pháp. Trong lúc chính quyền thuộc địa tưởng rằng có thể duy trì mãi mãi sự kiểm soát của họ thì người Việt lặng lẽ theo dõi, chờ đợi thời cơ thuận tiện để vùng lên.
Tại miền trung Trung Kỳ, đúng hơn ở phía bắc vĩ tuyến 17, tỉnh lộn xộn nhất là Quảng Bình. Tại tổng Đại Phong, huyện Lệ Thủy có một làng không lớn, dân không đông là An Xá. Ngày 25/8/1911 một phụ nữ trong làng là bà Nguyễn Thị Kiên sinh hạ được một bé trai đỏ hỏn và được chồng là Võ Quang Nghiêm đặt cho cái tên Võ Nguyên Giáp. Như tất cả những người Việt Nam khác, cậu bé đó được gọi bằng cái tên cha mẹ đặt cho mình: Giáp.
Ông là con thứ sáu trong gia đình, nhưng lại coi như con trai cả vì hai người anh trai sinh trước đều không nuôi được, tiếp đó là ba người chị gái thì một chị cũng mất sớm vì bệnh kiết lỵ, chỉ còn hai người chị được cha mẹ đặt tên là Diễm và Liên. Tiếp sau Giáp là một người con trai nữa, Võ Thuần Nho và kế đến là cô con út trong gia đình được đặt tên là Võ Thị Lài.
Ông Võ Quang Nghiêm đã đặt cho con trai cái tên Giáp, hẳn là một cái tên nhiều ý nghĩa. Họ Võ có nghĩa là sức mạnh, là võ lực, còn Giáp có nghĩa là một vật che chắn ngực khi xung trận.
Quảng Bình, sinh quán của ông cùng với hai tỉnh liền kề Hà Tĩnh và Nghệ An chiếm phần lớn diện tích của dải đất hẹp nhất nước và từ xa xưa vẫn là những vùng nghèo nhất. Đa số dân trong làng An Xá nhỏ bé là nông dân nghèo. Trừ ba bốn gia đình là địa chủ có nhiều đất đai cày cấy, còn phần lớn là những mảnh ruộng con con nhưng người ta không bắt buộc phải thuê thêm để trồng trọt. Đất đai để canh tác chạy quanh làng là đất sỏi, đất cát, ít màu mỡ, chỉ trồng được lúa và khoai lang. Dân làng vất vả sống lần hồi qua ngày tháng. Nhưng những phong cảnh đặc biệt vùng Quảng Bình khiến họ rất tự hào, có ba con sông lớn: sông Gianh, Nhật Lệ và Kiến Giang. Hồ Bầu Tró nằm cách phía bắc Đồng Hới một cây số có hình dáng tựa như cái nghiên mực. Rồi một cái hồ thiên nhiên lớn hơn gọi là Hạc Hải cũng có hình dáng tương tự. Nước hồ thất thường khi đầy khi vơi, ăn thông sang các sông lớn đủ cung cấp cá làm phong phú bữa ăn vốn đạm bạc của người Việt từ bao đời nay. Trên bờ hồ Hạc Hải trồng các giống dưa đỏ nổi tiếng mà xưa kia những quả ngon nhất được đưa đi tiến vua. Không xa là đỉnh Đầu Mầu có nhiều hang động ở sườn núi làm chỗ chơi cho bọn trẻ.
Dân Quảng Bình không những tự hào về ruộng, rừng kề bên, về các ngọn núi ẩn hiện trong sương mù ở chân trời mà họ còn tự hào về những người con sinh trưởng nơi đây đã là những quan lại đầu triều, những nhà nho học lỗi lạc, những quan võ cận thần của vua, những nhà thơ, những bậc hiền triết được vua vời vào cung dạy dỗ hoàng tử trưởng chuẩn bị làm người kế nghiệp ngôi báu. Người dân An Xá là những nông dân nghèo đầy kiêu hãnh và tự hào dân tộc, là những người rất ương ngạnh, ngang bướng dưới chính quyền cai trị của thực dân Pháp. Họ không dễ dàng chịu sự kiểm soát và ít kiêng nể giới cầm quyền dù là quan lại Trung Hoa thời Bắc thuộc xưa kia hay người Pháp sau này, kể cả quan lại người Việt được triều đình bổ nhiệm. Họ đã nổi dậy chống lại nền đô hộ thời Bắc thuộc và chống thực dân Pháp trong phong trào Cần Vương những năm 1880 (và về sau là phong trào năm 1930). Khi còn bé, cậu bé Giáp đã được nghe kể nhiều về tấm gương đấu tranh của nông dân trong vùng hãy còn tươi rói trong tâm trí người dân.
Ở An Xá trừ một số ít nhà lợp ngói, còn lại đa số là nhà mái gianh, tường bằng phên đan trát bùn. Mỗi nhà có một mảnh đất phía sau và một sân hẹp phía trước làm chỗ phơi thóc và khoai lang. Ông Võ Quang Nghiêm, thân sinh ra Giáp là một trong số ít gia đình sung túc có đủ ruộng cày cấy, có nhà mái ngói khá tiện nghi theo tiêu chí địa phương. Ngôi nhà của ông dễ nhận ra vì trước sân có một cây chè dại mà ông sửa sang, tỉa tót theo dáng một con hổ rất lớn. Ban ngày lũ trẻ đi qua trước sân chỉ thấy một cây to có hình dáng khác lạ, nhưng khi sẩm tối hay ban đêm hình dáng con vật bằng cây trở nên sinh động đến mức các cô, các cậu phải rảo bước khi lượn qua hay đi đường vòng xa hơn để tránh.
Ông Nghiêm là người sùng đạo Khổng nên rất coi trọng việc thờ cúng tổ tiên. Gian giữa nhà để bàn thờ bày các bài vị có hình ảnh các cụ nội ngoại. Gần nhất là chiếc mâm bằng gỗ có khắc tên ông bà tổ tiên. Hai bên có lọ lộc bình cắm hoa và trên cao hơn cả là một lư hương bằng đồng đựng cát cắm hương thắp hàng ngày lấy từ trong các ống đựng các thẻ hương ở bên cạnh. Mùi hương thơm trong không khí trầm lắng tỏa khắp gian thờ. Hai trái đầu hồi dành cho bếp và buồng ngủ.
Ông Võ Quang Nghiêm (chữ Hán có nghĩa là nghiêm túc, đứng đắn) thuộc tầng lớp trung lưu ở An Xá. Đó là một nông dân bậc trung tự mình cày cấy và thuê thêm một mảnh ruộng nhỏ nữa nhưng từ nhiều năm ông đã dùng thời gian nông nhàn để hành nghề thuốc Nam cổ truyền. Sau khi không chữa khỏi cho con gái bị bệnh kiết lỵ, ông bỏ nghề bốc thuốc và chọn nghề dạy học cho lũ trẻ trong làng. Nhờ sự chỉ bảo của ông, chúng học cách nhận mặt chữ Nho (chữ Hán đọc theo âm Việt). Các tập sách ông dạy chúng phần lớn là tác phẩm văn học, là lịch sử dân tộc, ngoài ra là học vần Quốc ngữ tức là tiếng Việt viết theo mẫu tự La-tinh do cố đạo Alexandre de Rhodes nghĩ ra rất có lợi cho việc truyền bá văn hóa của người Pháp. Từ nhỏ ông Nghiêm đã được giáo dục theo khuôn mẫu đạo Nho. Ông được dân làng An Xá kính trọng coi ông như một người lỗi lạc, vì ông là một sĩ phu, một người có học vấn uyên thâm, một bậc túc nho có nhiều ảnh hưởng trong xã hội Việt Nam truyền thống.
Dân làng khi nói đến ông thường gọi là Cửu Nghiêm - ông Nghiêm giữ bậc quan thấp, ở hàng thứ chín trong hàng ngũ quan chức (cửu phẩm). Ông đã làm thư lại trong dinh quan tuần phủ tỉnh Quảng Bình và do đó ông có dịp qua lại nhiều lần Đồng Hới là thủ phủ của tỉnh. Chức trách của ông là tổng thư văn, chỉ là một viên chức cấp dưới, giải quyết các công việc sự vụ, gửi các văn thư, nhưng đã tạo cho ông một sự khác biệt so với người dân làng An Xá.
Ông Cửu Nghiêm là một nhà yêu nước đáng tự hào. Cụ thân sinh ra ông đã từng tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp bắt đầu từ tháng 7 năm 1885 lúc vua Hàm Nghi xuất bôn rời bỏ kinh thành Huế thoát khỏi sự kiểm soát của người Pháp để kêu gọi nhân dân đứng lên cứu nền quân chủ khỏi sự kiềm chế của Pháp. Tuy nhiên, do thiếu vũ khí, không có sự liên kết với các nơi nên phong trào tan rã năm 1896. Cửu Nghiêm luôn nhớ cuộc nổi dậy đó và rất tự hào rằng gia đình ông đã tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp đầu tiên.
Trong lúc ông Cửu Nghiêm lo hoàn thành bổn phận của một viên chức thì chính bà Nguyễn Thị Kiên phải đảm nhiệm thêm một phần công việc đồng áng ngoài công việc nội trợ của một phụ nữ trong gia đình. Thân sinh của bà cũng là một thủ lĩnh trong phong trào Cần Vương đứng đầu một tỉnh. Giống như chồng, bà luôn nhớ cuộc đấu tranh chống Pháp và thường hay kể lại cho con cháu nghe về chuyện cha bà đã chiến đấu chống lại bọn cướp nước như thế nào.
Say mê quá khứ hào hùng của cha ông, bà Kiên có một trí nhớ tuyệt vời, nên tuy không biết chữ nhưng bà có thể kể vanh vách, đọc thuộc lòng những bài thơ và những truyện rất nổi tiếng bằng văn vần Kim Vân Kiều, Nhị Độ Mai, Tống Trân Cúc Hoa và nhiều truyện khác. Võ Nguyên Giáp đã nhận xét: “Bà cụ thân sinh ra tôi nhớ như in những chuyện kháng chiến chống xâm lăng. Mỗi buổi tối dưới ánh đèn dầu, bà thường kể cho tôi nghe các vụ án rất tàn bạo mà quân Pháp xử các nghĩa quân Cần Vương trong đó có ông ngoại, ông nội tôi. Tuổi thơ tôi đã được tắm mình trong những tình cảm yêu nước sâu sắc”. Nhiều đêm, trước khi đi ngủ, cha lại đọc cho cậu bé Giáp nghe những bài thơ yêu nước như vè Thất thủ kinh đô nói về việc người Pháp đã lấy được kinh đô năm 1883 như thế nào. Ngay từ tấm bé Giáp đã tắm mình trong tinh thần yêu nước sục sôi và những tình cảm ấy không bao giờ xa rời ông.
Lên 4, 5 tuổi cậu bé Giáp đã được cha dạy đọc chữ Nho. Ông rất thích học và cha ông khuyến khích, cổ vũ ông bằng cách để bên cạnh một lọ thủy tinh đựng đầy các thứ kẹo mà trẻ con thích. Mỗi khi Giáp học có kết quả tốt, cha ông lại lấy kẹo trong lọ thưởng cho. Cuốn sách đầu tiên Võ Nguyên Giáp được dạy là cuốn Ấu học tân thư trong đó viết về nhiều tấm gương yêu nước. Sau này cuốn sách đã được xuất bản dưới thời vua Duy Tân (1907 - 1916) – Người đã ngầm kêu gọi binh lính Việt phản đối việc bị đưa đi Pháp tham gia Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất cũng như chống lại sự đô hộ của người Pháp. Võ Nguyên Giáp nhớ lại ảnh hưởng của cuốn sách thời thơ ấu đó đối với mình: “Tôi khám phá ra rằng các bậc cha anh mình đã anh dũng hy sinh rửa nhục cho đất nước”. Ông học được rằng dù đất nước mình, như Caesar đã từng viết, bị chia thành ba miền với ba chế độ cai trị khác nhau, nhưng: “Tổ tiên của chúng ta không phải là người Gaulois”.
Cũng như bọn trẻ tinh nghịch trong làng, cậu bé Giáp rất ham chơi, đi chân đất chạy khắp làng để đánh đáo, đánh bi, chơi quay, đánh lộn nhau, đi theo đàn ngỗng, đàn vịt rồi lấy sỏi ném khiến chúng chạy tán loạn rồi reo ầm lên và cười ngặt nghẽo… Những đứa trẻ lớn hơn thì chơi đá bóng, nhưng trò chơi phổ biến nhất là đá cầu, đòi hỏi cả kỹ năng và sự kiên nhẫn. Các cậu bé dùng chân, cả ngón lẫn gót và mắt cá chuyền cho nhau quả cầu làm bằng đồng xu nhỏ, có lỗ vuông ở giữa được buộc vài túm lông hay túm dây, ai không đỡ kịp hoặc đá trượt để cầu rơi xuống đất là thua cuộc. Chỉ cần hai cậu bé cũng có thể chơi được trò này, chúng đá qua đá lại cho nhau. Chúng còn tổ chức thi đấu bóng đá với số lượng người chơi không hạn chế, càng đông càng vui, luật chơi đơn giản, quả bóng chỉ là quả bưởi xanh, to, bọc ngoài bằng những mụn vải hay manh áo rách.
Mỗi tuổi mỗi lớn chúng tham gia công việc đồng áng với cha mẹ, anh chị lớn trong gia đình. Giáp cũng vậy, cậu đi chăn vịt ngoài ruộng, cưỡi trâu gặm cỏ quanh gốc đa, đến mùa gặt thì đập lúa, hát “hò giã gạo” để giữ nhịp đập cho đều.
Từ 5 đến 8 tuổi, Giáp đi học ở trường làng An Xá. Tuy đã già những mỗi khi nhắc lại những ngày đầu đến trường, ông hạ giọng nhẹ nhàng nói: “Đó là lần đầu tiên xa mẹ, cả hai mẹ con đều khóc”. Quần áo mặc đi học là chiếc áo dài, dài quá đầu gối, mùa nóng là màu trắng, còn thu đông là áo thâm, bên trong áo dài là chiếc quần trắng chỉ dài đến mắt cá chân quanh năm xuân hạ thu đông đều màu trắng, đi giày đen, đầu quấn khen đen. Buổi sáng lớp học bắt đầu từ 7 giờ 30 phút và tan học lúc 11 giờ 30 phút để đến chiều lại học từ 2 giờ 20 phút đến 5 giờ. Buổi trưa Giáp trở về nhà ăn cơm với gia đình và mặc dù còn bé, nhưng cậu cũng làm một giấc ngủ trưa trước khi đi học buổi chiều. Hôm nào không thuộc bài, thầy giáo dùng roi tre dài lúc nào cũng lăm lăm trên tay quật vào mông, vào lưng hoặc bàn tay úp sấp của học trò. Lớn hơn một chút, sau giờ học, Giáp cũng chơi nhiều hơn với bọn trẻ trong làng.
Ở trường tiểu học mặc dù người Pháp giám sát kỹ chương trình học nhưng các bài giảng đều được dạy bằng tiếng Việt, bắt đầu lên lớp ba trẻ mới bắt đầu học tiếng Pháp mỗi tuần vài giờ.
Trong nhiều thế kỷ, xã hội Việt Nam chịu ảnh hưởng của Nho học. Nền tảng học vấn cơ bản của Giáp là theo tinh thần Khổng giáo. Các bài học mà cậu bé Giáp được học đều tập trung dạy về cách xử thế trong gia đình và xã hội: kính trọng ông bà cha mẹ, trên kính dưới nhường, em đối với anh, nhất là con trưởng đối với cha mẹ, gia đình đối với làng nước và xã thôn, đối với vua, vua đối với Trời. Trong thế giới quan của người Việt, cá nhân và gia đình hòa quyện với nhau. Đồng thời Giáp cũng học lịch sử, địa lý, văn chương, số học và vạn vật. Ban đầu học địa lý chủ yếu là địa lý Việt Nam, sau đó lên lớp ba mới dần dần học địa lý các nước bên ngoài biên giới Việt Nam.
Về lịch sử Giáp thấm nhuần các bài học về cuộc đời các anh hùng trong quá khứ: Lê Lợi chống quân Minh năm 1428, Trần Hưng Đạo đánh quân Mông - Nguyên năm 1283 và 1287, Phan Đình Phùng tham gia phong trào Cần Vương, Lý Thường Kiệt dẫn quân đánh Chiêm Thành năm 1069 rồi tiến hành chiến tranh chống Tống, Nguyễn Huệ chống nhà Thanh xâm lược miền Bắc rồi lên ngôi lấy hiệu là Quang Trung… Từ bậc tiểu học cậu bé Giáp đã biết và rất tự hào về các câu chuyện của cha ông trong quá khứ. Cậu biết được có nhiều hoàng đế Việt Nam đã kêu gọi toàn dân dốc lòng, dốc sức chống giặc ngoại xâm. Cậu rất am hiểu những bài học đó.
Lên 8 tuổi học xong bậc tiểu học ở trường làng An Xá, Giáp được ông Cửu Nghiêm xin cho vào học trường tổng trong thị trấn Đại Phong gần làng. Giáp học ở trường tổng hai năm, tương đương với lớp bốn, lớp năm sau này. Lên 9 tuổi Giáp học trường huyện, đến năm 11 tuổi bắt đầu vào trường tỉnh.
Năm 1923, 12 tuổi Giáp thi lấy chứng chỉ tốt nghiệp bậc tiểu học. Đối với một thiếu niên Việt Nam hồi ấy đạt đến trình độ học vấn đó không dễ dàng chút nào, vì các nhà cầm quyền Pháp hạn chế việc mở trường học và muốn duy trì nạn mù chữ để họ dễ cai trị. Năm sau, Giáp dự thi vào trường học tại Huế nhưng bị trượt. Những ngày tháng tiếp theo, Giáp miệt mài học ôn hy vọng đỗ vào kỳ thi tuyển thứ hai. Quả nhiên trong kỳ thi thứ hai năm 1925 Giáp đỗ với kết quả xuất sắc, xếp hạng nhì trong tổng số thí sinh trúng tuyển.
Ông Cửu Nghiêm được một người bạn là cố đạo René Morinot, một cha xứ rất được kính trọng trong vùng, nhiệt tình giúp đỡ Giáp trong những ngày xa nhà học tại Huế. Hai ông bà Cửu Nghiêm rất sung sướng có con học trường Quốc học Huế, trường học bằng tiếng Pháp và là vườn ươm những hạt giống cách mạng. Giáp đã sớm bộc lộ tư chất của một nhà lãnh đạo. Được học trường Quốc học là một vinh dự và cũng là phù hợp với khả năng của Giáp. Ông tỏ ra rất thông minh và đặc biệt xuất sắc về văn chương và lịch sử. Cuối mỗi tháng ban giám hiệu nhà trường công bố trên bảng kết quả học tập của học sinh. Trong hai năm học trường Quốc học Huế, Giáp luôn luôn đứng đầu trong lớp chỉ trừ có một tháng rớt xuống hạng nhì.
Ở Trung Kỳ chỉ có ba trường cùng một loại như thế là Quốc học Huế, trường Vinh (Nghệ An) và Quy Nhơn (Bình Định). Ngô Đình Khả, quan đại thần triều Nguyễn và là thân sinh ra Tổng thống Ngô Đình Diệm, đã có công lập ra Trường Quốc học Huế năm 1909. Ông muốn lập ra một trường học đào tạo theo cả lối giáo dục truyền thống và giáo dục hiện đại đồng thời mong muốn thoát ra khỏi ảnh hưởng của Pháp. Nhà trường nhận học sinh học xong bậc tiểu học sau khi qua được kỳ thi tuyển.
Rất nhiều nhà giáo dạy trong Trường Quốc học Huế là những nhà trí thức nổi tiếng. Ưng Quả dạy văn học Pháp cũng là người giám hộ Thái tử Bảo Long, con trai vua Bảo Đại, Phạm Đình Ái dạy vật lý và hóa học sau này là chuyên gia về đạn dược trong quân đội của Võ Nguyên Giáp những năm kháng chiến chống Pháp từ 1948 đến 1954. Sau đó ông vào Nam và từng được bầu là Thượng nghị sĩ Quốc hội đứng đầu nhóm xã hội đối lập tại Quốc hội Sài Gòn 1966 - 1975. Nguyễn Dương Đôn, dạy toán và hình học sau này là Bộ trưởng Giáo dục thời Ngô Đình Diệm từ 1954 đến 1963, Nguyễn Huy Bảo dạy triết học, sau này là Trưởng khoa Mỹ thuật Đại học Sài Gòn, Mai Trung Thứ dạy vẽ là một nghệ sĩ tài danh đã có nhiều tác phẩm được trưng bày nhiều lần ở Paris trong những năm 1930, Nguyễn Thiệu Lâu dạy lịch sử và địa lý, là tác tác giả của nhiều công trình nghiên cứu lịch sử đã được xuất bản. Một giáo sư sử học nữa là Nguyễn Lân, người biên soạn từ điển về các tác phẩm kinh điển của Việt Nam.
Những giáo sư xuất sắc đã đào tạo nên những người học trò đặc biệt. Một số sau này là những nhân vật quan trọng trong lịch sử Việt Nam, trong số đó có Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng (sau này là Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ 1958 đến 1968) và Ngô Đình Diệm.
Chương trình học ở Trường Quốc học Huế cũng giống như ở các trường khác do người Pháp làm hiệu trưởng và cũng gần giống với các trường của Pháp đào tạo tú tài. Tất cả các môn học đều học bằng tiếng Pháp trừ các môn ngoại ngữ. Tiếng Việt là “ngoại ngữ” thứ nhất bắt buộc, tiếng Anh là ngoại ngữ thứ hai. Học sinh học văn học Pháp từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 20, lịch sử nước Pháp từ thời thượng cổ đến hết Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất. Môn địa lý dạy địa dư các “quận” của nước Pháp (tương đương với tỉnh ở Việt Nam), học sinh học toán, vật lý, hóa học. Đó là chương trình học khá nặng.
Sau bốn năm học, học sinh sẽ thi lấy bằng tốt nghiệp cao đẳng tiểu học Đông Dương gọi tắt là DEPSI (Diploma des études primaires supérieures indochinoises). Những học sinh nào hoàn tất bảy năm học sẽ thi lấy bằng tú tài. Trường có cả học sinh nam và học sinh nữ nhưng học sinh nữ chiếm số đông, cứ sáu nữ mới có một nam. Đa số các nữ sinh Quốc học Huế đều đã tốt nghiệp trường kế bên là trường nữ học Đồng Khánh và chỉ dự lớp vào ba năm cuối ở Quốc học (bậc trung học). Khi Võ Nguyên Giáp đỗ vào trường năm 1925, Quốc học Huế đã có khoảng 1.200 học sinh.
Tại Huế, Giáp thuê phòng trọ ở một ký túc xá tư nhân, chỉ nhận năm, sáu học sinh Quốc học. Giáp rất háo hức bắt đầu kỳ học của mình. Giáp nhận ra rằng đội ngũ giáo sư phần lớn là người Việt, chỉ có một vài giáo sư là người Pháp. Một người bạn học với Giáp, Lê Sĩ Ngạc nhớ lại: “Đó là một thanh niên tốt bụng, sáng sủa, thông minh, học rất giỏi. Chúng tôi học cùng một lớp. Cậu là một học sinh xuất sắc. Có thời gian chúng tôi đã ở chung với nhau trong ký túc xá tư nhân nhỏ bé ấy”.
Lê Sĩ Ngạc, một người đã có tuổi, hiện đang sống cùng con trai ở McLean, bang Virginia kể lại: “Người ta dạy chúng tôi bằng tiếp Pháp, trừ có một môn. Chúng tôi được học nhiều về lịch sử Pháp, còn lịch sử Việt Nam thì được học rất ít. Thời đó khi đỗ tốt nghiệp DEPSI rồi, bọn tôi hiểu về lịch sử Pháp nhiều hơn lịch sử Việt Nam”.
Có thể không được học chính thức trên lớp nhưng có nhiều cách khác nhau để thanh nhiên thời đó biết những câu chuyện và truyền thuyết về quá khứ của đất nước mình. Sau một thời gian ngắn vào học Trường Quốc học Huế, Giáp chịu ảnh hưởng của một nhà cách mạng quốc gia nổi tiếng là chí sĩ Phan Bội Châu bị giam lỏng ở Huế. Giáp không phải là người duy nhất trong số học sinh Trường Quốc học coi cụ Phan Bội Châu là người anh hùng của mình. Võ Nguyên Giáp nhớ lại: “Học sinh Quốc học Huế ngoài việc học tập chăm chỉ và nghiêm túc, còn rất quan tâm đến chính trị.”
Lê Sĩ Ngạc, ở cùng phòng trọ với Giáp kể lại: “Hôm đó Phan Bội Châu đến thăm Trường Quốc học, sau khi được Pháp thả tự do. Ông đọc một bài diễn văn công kích hệ thống thuộc địa Pháp nên về mặt chính trị ông đã ảnh hưởng lớn đến chúng tôi. Khi các anh buộc phải sống dưới chính thể Pháp thì các anh hãy căm ghét chế độ đó, hãy biết căm thù. Nước Việt Nam nào khác một con rối do người Pháp giật dây điều khiển. Mọi người ai cũng biết điều đó và các anh phải biết căm thù bọn xâm lược. Giáp cũng như nhiều học sinh khác chăm chú nghe… Giáp quyết định phải làm điều gì đó.”
Năm 1903(1), Phan Bội Châu thành lập Duy Tân hội có xu hướng dân tộc chủ nghĩa. Hai năm sau, ông sang Nhật, nơi trú ẩn quen thuộc của người Việt Nam yêu nước thời đó. Tại đây ông viết những lời kêu gọi yêu nước, cổ vũ tinh thần chống thực dân Pháp, kêu gọi mọi người đoàn kết đấu tranh để thành lập một nhà nước hiện đại, xây dựng nền giáo dục Âu Tây và khoa học để thay thế hệ thống Nho giáo cổ truyền.
Buộc phải rời khỏi Nhật Bản năm 1908, Phan Bội Châu đi Trung Quốc. Tại đây, năm 1912, Phan Bội Châu lập ra Việt Nam Quang phục hội phỏng theo mô hình “Trung Hoa dân quốc” của Tôn Dật Tiên. Bị tù giam ở Trung Quốc một thời gian sau đó đến năm 1917, Phan Bội Châu đã gặp Hồ Chí Minh đang hoạt động ở Trung Quốc dưới cái tên Lý Thụy. Tháng 6/1925, Phan Bội Châu bị bắt khi đi qua tô giới quốc tế ở Thượng Hải. Bị giải về Hà Nội dưới sự canh giữ chặt chẽ, Phan Bội Châu bị đưa ra Tòa đại hình xử về tội chống lại nhà nước bảo hộ và bị kết án tù khổ sai chung thân. Sau đó, dưới áp lực của phong trào đấu tranh đòi ân xá Phân Bội Châu của những người Việt Nam yêu nước, Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne (1925 - 1928) buộc phải giảm án hình phạt từ khổ sai xuống quản thúc chung thân tại nhà ở Huế. Ông sống 14 năm cuối đời còn lại tại Huế trong sự ngưỡng vọng của nhân dân như một gương mặt tiêu biểu của tinh thần yêu nước cho đến ngày mất (29/10/1940).
Vì một lý do nào đó, người Pháp đã cho phép Phan Bội Châu được tiếp khách và năm này qua năm khác ngoài những bậc chí sĩ khác, còn có từng đoàn học sinh trong đó có cậu học sinh Giáp đến thăm, để nghe cụ Phan sôi nổi giảng giải về tiền đồ sáng lạn của đất nước. Ngày Chủ nhật hàng tuần là ngày cậu học sinh Giáp yêu thích nhất, đó là ngày cậu cùng các bạn học đến thăm nhà cách mạng lão thành. Võ Nguyên Giáp kể lại: “Cụ thường kể cho chúng tôi điều gì đang diễn ra trên thế giới. Trên tường, cụ treo chân dung Tôn Dật Tiên, Lênin và Đức Phật Thích Ca. Bọn trẻ chúng tôi lúc đó rất say mê đi tìm chân lý”.
Dù nói chuyện ở đâu, Trường Quốc học hay ở nhà, nói với người lớn hay thanh thiếu niên, câu chuyện Phan Bội Châu kể bao giờ cũng xoay quanh các vấn đề lòng yêu nước, những lời tiên tri về tương lai, tinh thần kiên quyết chống Pháp và sự cần thiết phải hành động. Cụ nói chuyện không dứt với Giáp về nền dân chủ, về các vấn đề của Việt Nam và sự lộng hành của chính quyền thuộc địa Pháp. “Gà đang gáy, hãy đứng lên các bạn trẻ, đứng lên và chuẩn bị hành động”. Giáp kể lại, có một lần cụ Phan sảng khoái tuyên bố: “Một ngày kia nhân dân bị áp bức sẽ nổi dậy chiến đấu cho nền độc lập. Ngày đó sẽ là tai họa cho bọn thực dân Pháp.”
Như vậy từ khi vào học Quốc học Huế năm 1925, sự giác ngộ chính trị của Giáp đã được khẳng định. Chẳng bao lâu sau, cậu mời các bạn học tập trung đến phòng trọ của mình, lúc đầu là để trao đổi với nhau về bài tập trên lớp và khi đã xây dựng được lòng tin với nhau, họ thì thầm bàn về những vấn đề của thế giới, của thực dân Pháp ở Việt Nam. Những người đến tụ tập đều mến phục Giáp về học lực và tinh thần cách mạng. Trong thời gian rảnh rỗi, đôi khi Giáp sang bên kia sông, đi bộ đến Kinh thành Huế, nằm dài trên nòng súng đại bác cổ đặt dưới bóng cây bên cạnh Ngọ Môn. Ở đó Giáp tiếp tục suy nghĩ về sự đời, về những điều đã học được, về tương lai cuộc sống trong những năm tới. Lúc đó, chàng thanh niên Võ Nguyên Giáp nghĩ có lẽ sau này mình sẽ đi dạy học, sẽ dần dần gieo vào đầu óc bọn trẻ lòng yêu nước, yêu tự do là những thứ đang bị thực dân nước ngoài chà đạp.
Theo Giáp nói, Trường Quốc học Huế chính là cái nôi của phong trào yêu nước của học sinh Trung Kỳ. Chẳng hạn, một số giáo sư dạy ở đó có thể hoàn toàn chia sẻ những ý tưởng chống thực dân với học trò. Nghe những lời lẽ như thế từ các giáo sư và nhà yêu nước Phan Bội Châu, Giáp và các bạn càng tin chắc rằng một ngày kia Việt Nam sẽ thoát khỏi ách nô lệ. Họ truyền tay nhau đầy tự hào những áng văn thơ yêu nước. Khi đó Võ Nguyên Giáp đã tìm ra những tờ báo theo xu hướng dân tộc như Le Paria (Người cùng khổ), Việt Nam hồn, và anh đọc rất kỹ.
Năm 1926, bước vào năm học thứ hai, Hải Triều - một người bạn thân - cho Giáp mượn cuốn sách nhỏ và cuốn sách ấy đã làm thay đổi cuộc đời anh. Được bọc bên ngoài bằng cái bìa giả mang dòng chữ Ả-rập, cuốn sách là một bài tiểu luận đả kích chế độ thuộc địa do Hồ Chí Minh lúc đó dùng bút danh Nguyễn Ái Quốc viết với nhan đề Lên án chủ nghĩa thực dân Pháp. Cuốn sách khiến Giáp vô cùng tò mò. Anh chạy ngay ra cánh đồng và trèo lên một cây cao đọc để không bị ai quấy rầy. Võ Nguyên Giáp kể lại: “Bản luận văn của Nguyễn Ái Quốc đã gây cho chúng tôi một lòng căm thù sâu xa như một luồng điện chạy qua”. Đó là sợi dây đầu tiên nối liền số phận của Võ Nguyên Giáp với Hồ Chí Minh và sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Bị lôi cuốn bởi tư tưởng của các nhà cách mạng khác trên thế giới, Giáp đọc ngấu nghiến những bài viết bằng tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc và bắt đầu nghiên cứu những tác phẩm của Mác và Lênin.
Các cậu học trò Trường Quốc học càng thảo luận và nghiên cứu các vấn đề của đất nước dưới ách thống trị thực dân thì những tình cảm yêu nước của họ càng nồng cháy. Đã đến lúc họ thấy chỉ bàn luận thôi chưa đủ mà phải đi vào hoạt động thực sự, thể hiện tinh thần chống Pháp của mình. Giáp nhớ lại: “Chúng tôi nổi dậy bất cứ khi nào thời cơ đến” và khi đó thời cơ không thiếu. Họ biểu tình khi người Pháp từ chối không chấp nhận yêu cầu của Phan Bội Châu xóa án quản thúc tại nhà, thực tế là giam lỏng. Nỗi tức giận của họ càng sục sôi khi được tin Phan Chu Trinh tạ thế. Phan Chu Trinh là người chủ trương làm cách mạng theo xu hướng cải cách, bị kết án tù năm 1908 vì đã ủng hộ phong trào nông dân đề xướng cắt bỏ búi tóc(2). Người ta còn gọi đó là cuộc nổi dậy của “những người để tóc dài” ở Trung Kỳ. Sau một thời gian bị giam giữ ở nhà ngục Côn Đảo, Phan Chu Trinh được thả về nhưng phải đi biệt xứ ở Pháp. Năm 1925, được trở về Việt Nam, ông lâm bệnh và năm sau, ông mất tại quê nhà.
Đám tang Phan Chu Trinh là một dịp để những tình cảm yêu nước bùng nổ gần như khắp nơi trong nước. Ở Trường Quốc học Huế, để tưởng nhớ Phan Chu Trinh, từng đoàn học sinh mặc tang phục quần trắng, áo dài trắng và chít khăn trắng. Theo Võ Nguyên Giáp kể lại, hành động đó làm cho viên Hiệu trưởng người Pháp tức điên. Được sự giúp đỡ của giám thị, ông này tỏ thái độ cứng rắn và dò xét đối với học sinh. Cũng gần vào thời điểm này, Giáp tổ chức quyên tiền để giúp đỡ những chính trị phạm bị giam trong các nhà tù.
Đối với Giáp, điểm mốc đánh dấu sự tan vỡ quan hệ với Ban giám hiệu nhà trường là vào năm 1927. Viên Hiệu trưởng được Giáp mệnh danh là “tên bạo chúa” Trường Quốc học cáo buộc một học sinh là Nguyễn Chí Diểu đã gian lận trong lúc làm bài thi. Ai cũng biết Diểu có tư tưởng chống Pháp và là bạn thân của Võ Nguyên Giáp. Giáp nghĩ rằng viên Hiệu trưởng chỉ bịa ra cái cớ gian lận thi cử để đuổi khỏi trường một trong những người có hoạt động bài Pháp trong nhà trường. Đó là một bất công mà Giáp không thể bỏ qua.
Giáp và Diểu kể chuyện đó cho những người bạn thân thiết nhất trong lớp. Lập tức, bạn bè của hai người đi rải truyền đơn phản đối viên Hiệu trưởng và phát động phong trào: Bãi khóa! Hai cậu học trò Diểu và Giáp đã rất ngạc nhiên trước quy mô lan tỏa của làn sóng đấu tranh. Cuộc bãi khóa trước hết là từng lớp rồi lan ra toàn trường, rồi lan đến cả trường nữ học Đồng Khánh ở bên cạnh, lan đến cả các Trường dòng Thiên Chúa giáo rồi khắp các tỉnh xứ Trung Kỳ.
Phong trào bãi khóa nhanh chóng bị dập tắt, Ban giám hiệu nhà trường thẳng tay đuổi học Võ Nguyên Giáp. Giáp không chút ngạc nhiên vì đã lường trước những kết quả của hành động có suy nghĩ của mình, nhưng việc bị đuổi học vẫn khiến anh vô cùng tức giận. Để tự an ủi, Giáp viết một bài báo bằng tiếng Pháp nhan đề Đả đảo tên bạo chúa Trường Quốc học và gửi cho Phan Văn Trường chủ tờ báo Annam, một tờ báo tiếng Pháp xuất bản tại Sài Gòn. Vào thời đó, đây là tờ báo duy nhất dám công khai phê phán chính sách thuộc địa Pháp và được nhiều người đọc kể cả ở Huế và Bắc Kỳ. Chủ báo Phan Văn Trường liền đăng ngay sau khi nhận được bài báo của Giáp. Đó là lần đầu tiên Giáp xông vào địa hạt báo chí, lúc đó mới ở tuổi 16.
Sau khi rời khỏi Trường Quốc học, Võ Nguyên Giáp vẫn ở lại Huế và tổ chức một thư viện đọc sách bí mật. Đa số các tài liệu sưu tập được đều do các tổ chức cộng sản Pháp gửi cho. Khi đó Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Diểu tính đến khả năng trốn ra nước ngoài. Có thể họ phải đi ra nước ngoài để gặp gỡ những người xa xứ khác. “Nhưng khó khăn đã ngăn cản chúng tôi”, ông thú nhận, “tuy nhiên chúng tôi vẫn tiếp tục hy vọng và chờ đợi thời cơ thuận lợi”.
Trong những ngày tiếp theo, việc học tập bị dang dở, anh thỉnh thoảng quay về An Xá thăm cha mẹ. Anh vốn là người của hoạt động nhưng cuộc sống thanh bình ở nông thôn cũng giúp anh lấy lại sự bình thản trong chốc lát. Trong một chuyến về thăm gia đình, Võ Nguyên Giáp gặp lại Nguyễn Chí Diểu, Diểu đã kể cho anh nghe về một tổ chức cách mạng mới ra đời là Tân Việt Cách mạng đảng, gọi tắt là Tân Việt. Tổ chức bí mật này đòi cải cách xã hội và chính trị. Diểu đã gia nhập đảng này. Điều đó không thể không làm cho Võ Nguyên Giáp suy nghĩ…
1. Duy Tân hội thành lập tháng 5/1904 (BT).
2. Từ các năm 1906 - 1908, tại Trung Kỳ, Phan Chu Trinh đã vận động các phong trào đổi mới trên lĩnh vực tư tưởng, sinh hoạt như để răng trắng, cắt tóc ngắn, ăn mặc theo lối mới… Từ phong trào cắt tóc ngắn, khi lan xuống nông thôn đã dần biến thành phong trào kháng thuế của nông dân. Đây là một phần trong phong trào Duy Tân mà Phan Chu Trinh trực tiếp lãnh đạo. Do những ảnh hưởng của phong trào này, nên năm 1908 thực dân Pháp đã bắt Phan Chu Trinh (BT).
Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt
- Tác giả : Ngô Văn Phú
- Danh mục : Lịch sử