Chiến thắng bằng mọi giá

Chương 15 “Giữa trận tiền”

<<Chương 14 “Mồ hôi và công sức của binh sĩ” Chương 16 “Sai lầm và khuyết điểm chỉ là tạm thời” >>

Chương 15 “Giữa trận tiền”

Không ai có tinh thần cao bằng những người phòng thủ Điện Biên Phủ. Tổng tham mưu trưởng của Pháp, tướng Paul Ely trong chuyến viếng thăm Washington ngày 26/3/1954 đã gặp đô đốc Arthur B. Radford là Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ. Cùng dự có Tổng thống Dwight Eisenhower và Bộ trưởng Ngoại giao John Foster Dulles. Ely tuyên bố người ta có thể thấy trước là Điện Biên Phủ sẽ thất thủ. Mặc dù ông không yêu cầu gì nếu không phải là sự đảm bảo rằng Mỹ vẫn tiếp tục viện trợ cho Pháp, ông ta cũng báo trước là thất bại Điện Biên Phủ sẽ có hậu quả nghiêm trọng đối với toàn bộ Đông Nam Á. Thông điệp của Ely khiến Eisenhower sa sầm nét mặt và tuyên bố ngày 7/4: “Các ngài đang đứng trước một dãy con bài đôminô. Các ngài đánh con thứ nhất, các ngài hãy chờ để thấy con cuối cùng đến lượt nó cũng sẽ đổ sụp và nhanh thôi… Việc mất Đông Dương sẽ gây ra sự sụp đổ của Đông Nam Á như là hiệu ứng đôminô”.

Radford liền đề nghị với Eisenhower: Mỹ nên lập kế hoạch để cứu Pháp, được biết đến dưới cái tên Cuộc hành quân Vulture (con kền kền), sử dụng máy bay ném bom hạng nặng B.29 và các máy bay vận tải xuất phát từ Philippines để đè bẹp pháo binh của Võ Nguyên Giáp. Nếu chưa đủ, Radford nói, phải tính đến dùng bom nguyên tử. Đề nghị này gây nên cuộc tranh cãi khá ồn ào. Eisenhower không dứt khoát. Ông tuyên bố không thể quan niệm một tấn thảm kịch nào lớn hơn thế sẽ đến với nước ông nếu dính líu vào một cuộc chiến tranh khác ở châu Á và đồng thời ông lại muốn giúp đỡ Pháp. Khi nghe nói đến Cuộc hành binh Vulture, Chính phủ Pháp yêu cầu Mỹ tiến hành ngay một cuộc oanh tạc ồ ạt bằng phi cơ. Tổng thống Hoa Kỳ bác bỏ yêu cầu đó nhưng vẫn mở rộng cửa cho khả năng giúp đỡ Pháp nếu các đồng minh châu Âu đồng ý hợp tác. Dulles cố gắng tranh thủ sự ủng hộ, nhưng cố gắng của ông đã thất bại khi ở một cuộc họp của Hội đồng an ninh Quốc gia vào cuối tháng 4, tướng Matthew Ridgway lên án ý kiến sử dụng vũ khí nguyên tử và nói rằng các cuộc tập kích đường không cổ điển sẽ không thành công nếu không có sự can thiệp trên mặt đất. Điều đó chắc chắn sẽ lôi kéo Hoa Kỳ vào một cuộc chiến tranh trên bộ ở châu Á. Ngày hôm sau Dulles thông báo cho đại sứ Pháp biết rằng sẽ không có sự can thiệp của Mỹ. Dù giải quyết thế nào thì tại Đông Dương trong vùng tây bắc Bắc Bộ, trong một thung lũng, xung quanh là đồi núi, cách biên giới Lào vài cây số, Điện Biên Phủ cũng sẽ phải phân thắng bại trong một trận chiến ác liệt giữa hai bên tham chiến.

Trong khi vấn đề đang được thảo luận hăng hái ở Washington và Paris, thì Võ Nguyên Giáp chuẩn bị tiến công đợt 2, sẽ kéo dài từ 30/3 đến 30/4. Với các cứ điểm còn lại, ông có ý định bao vây bằng cách nối các chiến hào thành một vòng khép kín rồi từ đường trục này đào các đường nhánh xói đến tận hàng rào phòng thủ từng vị trí. Đại đoàn 308 ra sức đào, dưới hỏa lực nguy hiểm chết người của địch, cuối cùng đã lập được đầu cầu xuất phát xung phong, chỉ cách vị trí tiền tiêu của địch không đầy một cây số. Các đơn vị khác cũng đào, cách chu vi phòng thủ của địch chỉ hơn một cây số. Ban đầu các đơn vị của Võ Nguyên Giáp chỉ đào ban đêm, nay bắt đầu đào ban ngày ngay dưới bom đạn của quân địch. Theo Võ Nguyên Giáp kể, họ đã tạo nên một hệ thống chiến hào đi từ các ngọn đồi xung quanh xuống tận cánh đồng, bao vây khu trung tâm và cắt rời với khu nam.

Gọng kìm Việt Minh khép chặt. Tướng Navarre ra lệnh gửi quân tiếp viện. Ngày 16/3 một tiểu đoàn dù nhảy xuống gặp được các đơn vị cố thủ bên trong tập đoàn cứ điểm. Nhưng chẳng thấm tháp gì. Ngày 21/3, các đội tuần tiễu đi về phía nam đã bị các làn đạn của Việt Minh chặn đứng không tiến được nữa. Isabelle (Hồng Cúm) hoàn toàn bị cô lập. Hỏa lực di động của trọng pháo Việt Minh đặt từ trên đồi nã xuống không ngừng, gây thiệt hại nặng nề cho phía Pháp. Một vài máy bay cố liều hạ cánh xuống sân bay để di tản thương binh, đều bị những loạt đạn điên cuồng chặn lại không cất cánh được. Một vài trực thăng nhờ đêm tối có thể hạ cánh, nhưng số lượng ít, nhịp độ hạ cánh rất xa với yêu cầu không ngừng tăng lên.

Các trận pháo kích liên tục của Việt Minh mà các khẩu pháo của Pháp đành bất lực, không sao chặn lại được, buộc quân phòng thủ Pháp phải đào sâu thêm các hầm để giữ an toàn nhưng cũng chỉ được chốc lát. Máy bay của không quân và hải quân Pháp thay nhau rạch bầu trời Điện Biên Phủ dội bom na-pan và ném bom các điểm nghi là vị trí pháo binh đối phương. Rõ ràng đó như những nhát kiếm chém xuống nước, không hiệu quả. Mưa gió mùa đến sớm làm lòng chảo Mường Thanh từ vùng đất bụi bặm nay thực sự là bãi đầm lầy, lại che chở các ngọn đồi xung quanh bằng một lớp ẩm chống lại sự phá hoại của bom na-pan. Hơn nữa, làn khói dày đặc được tạo nên trở thành phương tiện ngụy trang khá kín đáo bất ngờ cho các khẩu pháo Việt Minh. Chúng không bao giờ nhả đạn hai lần ở một chỗ. Tệ hại hơn là lực lượng phòng không của Việt Minh đã được tăng cường bằng pháo cao xạ 37 mm nhận từ Trung Quốc.

Bất chấp những nguy hiểm đó, người Pháp điên cuồng tiếp tục bắn pháo, dội bom na-pan xuống các ngọn đồi xung quanh để may ra trúng chỗ đặt pháo của Việt Minh hoặc nếu không ít ra cũng đốt cháy một phần cây cối để có thể phát hiện được mục tiêu… Để hy vọng cắt các đường tiếp tế, Pháp thả bom nổ chậm xuống các con đường dẫn tới Điện Biên Phủ nhưng vô ích. Võ Nguyên Giáp tự tin nói: “Chặn làn sóng của hàng vạn dân công tiếp tế, của các đoàn ngựa thồ, súc vật kéo hay các đoàn xe chở lương thực, súng đạn ra mặt trận là một việc làm quá sức của địch”.

Không dập được pháo binh, không quân Pháp chẳng giúp được gì cho lực lượng mặt đất. Thả dù tiếp tế đạn dược ngày càng trở nên nguy hiểm và đồ tiếp tế thả xuống đáng lẽ rơi xuống khu vực Pháp phòng thủ thì lại lạc sang trận địa của Việt Minh hoặc còn đi xa hơn nữa. Người ta thấy những pháo thủ Việt Nam xông ra nhặt những kiện hàng chở toàn đạn 105 mm đáng lẽ dành cho pháo binh Pháp. Đem về vị trí của họ, họ dùng để bắn vào các mục tiêu của địch đã trong tình trạng nguy hiểm. Tuy nhiên, trong khi chu vi phòng thủ thu hẹp dần, thì vẫn có người Pháp tình nguyện nhảy dù tăng viện cho Điện Biên Phủ. Trong một trận đánh, năm tiểu đoàn đã nhảy xuống Điện Biên Phủ, một tiểu đoàn gồm toàn lính Việt, tiểu đoàn thứ hai đa số là Đức, còn ba tiểu đoàn khác là lính nghĩa vụ. Ngoài các đơn vị trên còn có 1.530 người tình nguyện đến để thay thế các nhân viên điện đài, các chuyên viên bị loại khỏi chiến đấu vì bị thương nặng. Trong số này có 680 người chưa bao giờ nhảy dù!

Ngày 23/3, tướng Navarre có cuộc tiếp xúc với tướng Võ Nguyên Giáp bằng điện đài và lần đầu tiên ông xưng hô với kẻ thù bằng “Tướng”. Ông yêu cầu Việt Minh đừng bắn vào các máy bay cứu thương đến để chở thương binh di tản khỏi Điện Biên Phủ. Yêu cầu của ông, theo Bernard Fall kể lại, rơi vào im lặng!

Chiều ngày 30/3, Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho bộ đội từ các chiến hào đã đào đến gần phòng tuyến quân Pháp nhất loạt xung phong. Khu vực kiểm soát của địch nay chỉ còn là một hình vuông mỗi cạnh 2 km. Bộ đội Việt Minh vây hãm Dominique, mỗi bên chiếm một nửa, giành nhau từng thước đất ở chân đồi. Cường độ trận đánh đôi khi gợi lại trận Verdun trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Cảnh tượng chiến trường vô vọng và tiếng súng rền được Bernard Fall miêu tả trong cuốn sách của ông về Điện Biên Phủ đã gợi ý cho nhà xuất bản Mỹ đặt tên là Địa ngục thu nhỏ (Hell in a Very Small Place). Quân Pháp hết cả súng cối 80 mm, không còn cả lựu đạn cầm tay. Mặc dù vậy, họ vẫn giữ vững trận địa. Các trận giao chiến ác liệt diễn ra xung quanh các ngọn đồi Dominique, Eliane, Huguette. Ở một số cứ điểm, trận tuyến hai bên chỉ cách nhau 10 đến 15 m. Đến giữa tháng 4, lực lượng của Võ Nguyên Giáp đã tiến sát sân bay và cắt đôi đường băng từ tây sang đông. Võ Nguyên Giáp ra lệnh giảm sức ép để Pháp đưa thêm viện binh và tiếp tế đạn dược cùng các vật dụng khác. Navarre hy vọng nhờ gió mùa, hậu cần của Võ Nguyên Giáp sẽ ngừng lại. Ông đã lầm to. Tổ tiếp tế của Việt Minh vẫn chở đều đặn lên mặt trận Điện Biên Phủ. Cuối cùng Navarre đã nhận ra những tính toán sai lầm của mình với đối phương.

Võ Nguyên Giáp đã không chuẩn bị cho tình huống mà số tù binh quá nhiều. Chính Việt Minh cũng không đủ sức chăm sóc thương binh của họ, còn sức đâu quan tâm đến người lính Pháp què cụt bị bắt làm tù binh. Theo lệnh của Võ Nguyên Giáp, người ta trao trả thương binh bị bắt cho Pháp, và biết rằng những tiếng kêu đau đớn của thương binh nặng sẽ vang đến tận bên trong các vị trí địch, làm tăng thêm sức ép tinh thần đối với người bị vây hãm. Những người còn đi được sẽ được đưa về các trại giam lẻ do sĩ quan tham mưu của Võ Nguyên Giáp lựa chọn.

Trong một thời gian, quân Pháp phòng thủ Isabelle (Hồng Cúm) nghĩ rằng có thể mở một đường rút khỏi cảnh nguy nan đó sang Thượng Lào. Họ đặt tên cho cuộc rút lui đó là cuộc Hành binh Albatross (chim hải âu). Con số các đơn vị Việt Minh có mặt trong vùng khiến kế hoạch đó chỉ là một cuộc tự sát dưới dạng khác. Vì vậy, họ bỏ kế hoạch đó, chọn cách ở lại cố bảo vệ cứ điểm. Tuy nhiên, cũng chỉ có khoảng 70 người còn sống sót.

Một câu chuyện được đăng trên báo Armee Rundschau (Quân đội nhân dân) của nước Cộng hòa Dân chủ Đức (cũ) kể lại: khi chiến sự tạm lắng, giữa hai đợt có thể là hai đợt cuối, không nói rõ thời gian, trong một cái lán giữa rừng, Võ Nguyên Giáp nằm nghỉ trên giường lấy lá làm đệm, gần chiếc bàn phủ đầy bản đồ tham mưu, các nghệ sĩ đã đến trình diễn một chương trình ca nhạc cho vị chỉ huy mặt trận, các sĩ quan tham mưu và một số người lính nghe. Võ Nguyên Giáp tiết lộ, trong những năm chiến tranh ông không có thì giờ dành cho âm nhạc mà ông rất ưa thích. Ông đặc biệt yêu thích Beethoven và Liszt.

Việc các nghệ sĩ đến doanh trại Việt Minh là điều đáng lưu ý vì nó chứng tỏ những người lính Việt Minh vẫn là những con người, không có gì là khác biệt, khác với bức tranh miêu tả về họ mà người ta thường gặp ở lúc này hay lúc khác. Trong các bài viết của mình, Võ Nguyên Giáp thường nhấn mạnh ông và Đảng luôn quan tâm đến tinh thần từng người lính: “Mỗi ngày hàng nghìn, hàng vạn lá thư, bức điện từ khắp nơi trong nước gửi về Điện Biên Phủ. Chưa bao giờ nhân dân cả nước Việt Nam lại tỏ ra lo lắng đến con em mình đang chiến đấu, chưa bao giờ quan hệ giữa hậu phương và tiền tuyến gắn bó mật thiết đến như vậy!”

Đúng là Võ Nguyên Giáp luôn lo lắng đến quân sĩ và những hy sinh họ đang phải chịu đựng. Cả hai bên, bên nào cũng tổn thất rất lớn nhưng chính Việt Minh phải đóng góp nặng nề hơn, vượt xa những tổn thất của Pháp. Cuối đợt 2 của cuộc vây hãm, người ta nói có vẻ như đúng sự thật rằng phía Việt Minh có hai vạn người chết, bị thương hoặc bị bắt. Con số này tương đương với hai đại đoàn bộ binh nhẹ của Võ Nguyên Giáp. Ông thừa nhận những điều kiện khắc nghiệt mà các chiến sĩ của ông phải chịu đựng. Cũng vẫn là những vất vả gian lao chẳng khác nào lính Pháp phải chịu: mệt mỏi, cáu ghét, chấy rận, một cuộc sống tụt xuống hàng súc vật trong suốt thời gian đào trận địa tiến về phía địch, một công việc không biết đến ngơi nghỉ, một chế độ ăn uống cực khổ gian nan nhất, một nỗi lo sợ thường xuyên không có nơi trú ẩn, quần áo ẩm ướt, lại còn chịu đựng mưa rào và gió mùa, rồi những cơn sốt rét, tăng nhịp tim và huyết áp ập đến giữa lúc phải xông lên đánh giáp lá cà với địch, để lại các đồng đội sống sót khóc thương bạn bè đã khuất.

Bên trong chu vi phòng thủ của Pháp, người ta nghe thấy qua điện đài những báo cáo của chỉ huy đơn vị gửi lên cấp trên và những hành vi bất tuân thượng lệnh. Người ta cũng được biết qua lời khai của tù binh là họ phải tiến dưới sự dọa nạt của sĩ quan và hạ sĩ quan sẽ bắn vào sau lưng nếu do dự hay tỏ ra yếu đuối.

Đã có lần Võ Nguyên Giáp nói lên tinh thần của bộ đội: “… Nhiều chiến sĩ bị mệt mỏi kiệt sức… thần kinh căng thẳng…, không tránh được tiêu hao..., xuất hiện tư tưởng hữu khuynh tiêu cực mà biểu hiện là sợ tổn thất, sợ mệt mỏi, sợ khó khăn thiếu thốn […]”. Một sự thú nhận đáng ngạc nhiên và chỉ có thể là dấu hiệu cho thấy tình trạng của quân sĩ khá nghiêm trọng. Ông viết: “Chúng tôi đã gặp đây đó trong hàng ngũ cán bộ và chiến sĩ những biểu hiện đánh giá thấp địch […] nhất là cuối đợt 2 chiến dịch”. Ông nói thêm: “Khi tiến công và phòng ngự cũng ác liệt như nhau”, “xuất hiện những tư tưởng hữu khuynh”. Khi nhận ra những vấn đề ở binh sĩ, ông đã gửi báo cáo về Bộ Chính trị Đảng Cộng sản. Các ủy viên Bộ Chính trị nghiên cứu vấn đề và khuyên Võ Nguyên Giáp nên nhanh chóng tìm ra giải pháp.

Võ Nguyên Giáp kể lại rằng “ngay giữa trận tiền” ông yêu cầu “đấu tranh quyết liệt và rộng rãi chống thụ động hữu khuynh”. Cán bộ chỉ huy và chính trị viên tổ chức các cuộc họp toàn đơn vị trong lúc chiến sự đang diễn ra ác liệt. Các chính trị viên điều khiển các cuộc họp thảo luận về lòng dũng cảm và tư tưởng đúng đắn, gắn bó với sự nghiệp, tận tụy với công việc được giao. Từng người đứng lên tự phê bình. Họ nêu ra những thí dụ cần theo hay cần lên án. Võ Nguyên Giáp thừa nhận: “Tất cả những việc đó là cần thiết để nâng cao tinh thần phấn khởi cách mạng và tinh thần triệt để chấp hành kỷ luật”. Phương pháp đó đem lại hiệu quả, đã lấy lại được tinh thần tận tụy và nhiệm vụ của bộ đội, nên Võ Nguyên Giáp càng tin vào thắng lợi của chiến dịch. Được các bài phát biểu hùng biện của các chính trị viên và lòng can đảm của đồng đội hun đúc, ngay cả những phần tử ngoan cố và do dự cũng lấy lại được tinh thần. Cuộc đấu tranh ý thức hệ đã thành công. Võ Nguyên Giáp phấn khởi ghi lại: “Đây là một trong những thành công của công tác chính trị trong lịch sử quân đội ta” và là yếu tố duy nhất “đem lại thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch Điện Biên Phủ”.

Người ta vô cùng khâm phục tinh thần trung thực của Võ Nguyên Giáp và ý thức thừa nhận khiếm khuyết của ông đã được viết rõ trong các tác phẩm của ông sau này. Điều gì sẽ xảy ra ở Điện Biên Phủ nếu Võ Nguyên Giáp nghiêng về quân sự hơn là chính trị? Được động viên thêm sức mạnh về những buổi học chính trị và được tăng cường bằng những đơn vị mới đưa lên mặt trận, bộ đội của Võ Nguyên Giáp nay sẵn sàng trở lại cuộc chiến.

Đợt 3 chiến dịch kéo dài từ 1/5 đến 7/5. Đến thời điểm này, quân Pháp chỉ còn giữ một ô vuông mỗi cạnh 1 km và thêm Isabelle ở phía nam. Họ hoàn toàn “phơi lưng” trước làn đạn Việt Minh. Tuy nhiên họ tiếp tục giao chiến, tin vào chuyến nhảy dù lúc 5 giờ 20 phút sáng ngày 6/5, còn 94 lính dù tình nguyện làm ứng cứu Điện Biên Phủ chỉ mấy tiếng đồng hồ trước khi kết thúc trận đánh. Trong những ngày này, Võ Nguyên Giáp không ra lệnh cho pháo binh bắn ngăn chặn vì quân của ông chỉ cách địch có 200 m. Lính Việt Minh chỉ còn xông lên, mở đột phá khẩu cắt hàng rào và đánh giáp lá cà bằng lựu đạn và lưỡi lê. Cuộc giao chiến tiếp diễn sang ngày 2/5. Mỗi ngày bộ binh Việt Minh xông lên tấn công những cứ điểm còn lại trong lúc súng cối nã vào các công sự phòng thủ của địch. Pháp mất dần các vị trí và các đồn tiền tiêu, đôi khi tự động rút bỏ vì không còn đạn.

Khoảng chiều ngày 7/5 Đại đoàn 308 mở cuộc tiến công ồ ạt và thọc sâu vào các vị trí ở trung tâm đề kháng cuối cùng. Giờ cuối cùng đã điểm. Trong hầm ngầm, De Castries kêu cứu qua điện đài: “Cuộc kháng cự sắp bị Việt Minh đè bẹp đến nơi, bọn Việt Minh chỉ cách chỗ tôi đang nói có vài mét. Tôi đã ra lệnh phá hủy hết mọi thứ còn lại. Chúng tôi sẽ không đầu hàng. Chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng! Nước Pháp muôn năm!” Mấy phút sau những người lính Việt Minh đã tràn vào hầm chỉ huy bắt tướng De Castries. Hồi 17 giờ 30 phút, người Pháp kéo cờ trắng. Isabelle giữ được đến sáng hôm sau, ngày 8/5/1954, rồi cũng phải đầu hàng. Trận chiến đã kéo dài 55 ngày đêm. De Castries và ban tham mưu của ông bị bắt.

Võ Nguyên Giáp thống kê thắng lợi tại Điện Biên Phủ: “Trên tất cả các mặt trận cộng lại, chúng ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 112.000 quân địch, hạ và phá hủy 177 máy bay. Riêng tại mặt trận Điện Biên Phủ, chúng ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 tên địch, trong đó có 1 thiếu tướng, 16 đại tá, 1.749 sĩ quan và hạ sĩ quan khác…, 62 máy bay và chúng tôi đã thu nhiều vũ khí đạn dược, thiết bị”. Mãi sau này, ông vẫn vui vẻ nhắc lại câu nói rất hay được Hồ Chí Minh nói lúc kết thúc trận đánh: “Ở Điện Biên Phủ, Võ Nguyên Giáp không mất một xe tăng, một máy bay nào!”

Rất nhanh, chính phủ Bắc Kinh nhận về mình công trạng đã làm nên chiến thắng của Việt Nam. Bắc Kinh tự hào tuyên bố: chính là các cố vấn quân sự Trung Quốc ở cấp cao nhất được chính phủ Trung Quốc gửi sang bên cạnh Võ Nguyên Giáp, nhất là tướng La Quý Ba đã dìu dắt Võ Nguyên Giáp đến thắng lợi. Các cố vấn đó đã lên kế hoạch hết, Võ Nguyên Giáp chỉ lặp lại ý kiến của các cố vấn và tổ chức thực hiện. Võ Nguyên Giáp và Chính phủ Việt Nam cho chuyện “nhận công” như thế là khôi hài. Võ Nguyên Giáp tuyên bố: “Yếu tố quan trọng nhất và có ý nghĩa quyết định nhất là quyết tâm không lay chuyển và tinh thần chiến đấu rất cao của nhân dân và quân đội nhân dân Việt Nam”.

Trận Điện Biên Phủ đã làm quân đội hao tổn sức lực và làm cạn gần hết nguồn lực của Võ Nguyên Giáp. Thắng lợi không đến với bên nào mạnh hơn mà với bên nào che giấu được kỹ hơn khó khăn với phía bên kia. Trong các tuyên bố công khai, Võ Nguyên Giáp khẳng định rằng thế nào ông cũng thắng. Nước Pháp kêu la khắp nơi. Chỉ có 4% lực lượng Pháp đã bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ. Nhưng xét về mặt tâm lý, thế là hết. Tám năm chiến tranh đã làm nước Pháp tốn hàng tỷ và theo Bernard Fall, làm 172.000 người chết, bị thương hoặc mất tích. Việt Nam cũng tổn thất nặng nề.

Sáng ngày 8/5, đúng lúc người Pháp chuẩn bị kỷ niệm lần thứ chín kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, tin về thảm họa Điện Biên Phủ được đăng tải trên tất cả các báo ở Paris. Cả nước Pháp bàng hoàng. Tại Paris dân chúng tập trung thành đám đông tấn công đoàn xe chính phủ đi dự lễ kỷ niệm và ném đá vào ôtô. Khắp nơi trong nước hàng nghìn cuộc mít tinh đòi hòa bình. Chính phủ Laniel-Bidault trước đây không lâu lên tiếng đòi tiếp tục chống Việt Minh đến cùng và từng nói đến “quốc tế hóa chiến tranh Đông Dương” nay không một ai ủng hộ. Tại Quốc hội, các nghị sĩ la hét dữ dội từ chối bỏ phiếu tín nhiệm đến nỗi mấy ngày sau Laniel phải từ chức. Sẽ có một chính phủ mới đại diện cho nước Pháp tại Hội nghị Geneva. Chiến thắng Điện Biên Phủ đúng là điều Hồ Chí Minh cần có tại Geneva. Từ nay Chính phủ Việt Nam đã kiểm soát hoàn toàn Bắc Việt Nam và thực tế là chiếm phần lớn lãnh thổ còn lại. Tình hình chắc chắn là sẽ được các nước lớn lúc này tụ tập ở Thụy Sĩ thừa nhận. Với sự giúp sức của họ, Hồ Chí Minh sẽ có thời gian phục hồi miền Bắc sau chiến tranh. Võ Nguyên Giáp sẽ có cơ hội xây dựng lại quân đội.

Thủ tướng mới của Chính phủ Pháp là Pierre Mendès-France – người của Đảng Xã hội cấp tiến. Ông ta tin rằng Chính phủ Laniel đã chậm chân ở Đông Dương và ông tìm cách tranh thủ thời gian tại Hội nghị Geneva với hy vọng thuyết phục người Mỹ đóng vai trò tích cực hơn chống Việt Minh. Mendès-France cho rằng tiếp tục cuộc chiến chỉ đem lại sự tủi nhục thêm cho đất nước, ông cam kết một cách đáng ngạc nhiên rằng nếu ông không có khả năng lập lại hòa bình ở Đông Dương trong 30 ngày thì ông sẽ từ chức. Ông đã giữ lời hứa mặc dù điều đó đòi hỏi thêm mấy ngày nữa. Mendès-France thấy các cuộc thương lượng với các cường quốc khác tại Geneva khó khăn hơn là ông đã tính.

Lúc bấy giờ tại Geneva có Georges Bidault, nay là người phát ngôn cho chính phủ mới của Mendès-France ở Pháp, Chu Ân Lai thay mặt cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Vyacheslav Molotov đại diện cho Liên Xô, Anthony Eden đại diện cho Chính phủ Anh và Walter Bedell Smith thay mặt cho John Foster Dulles – Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, Phạm Văn Đồng, Hoàng Minh Giám và Tạ Quang Bửu đã đến Geneva nhân danh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Nguyễn Quốc Định, bác sĩ Trần Văn Đỗ thay mặt Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại. Lào và Campuchia cũng tham dự, do Bộ trưởng Ngoại giao Tep Phon và Bộ trưởng Quốc phòng Nhick Tianlong đại diện.

Ngay từ đầu, Dulles đã rất ngờ vực đối với Hội nghị Geneva. Ông biết một cuộc dàn xếp là không tránh khỏi và ông không khỏi rùng mình trước viễn cảnh một khoảng trống về quân sự ở Đông Nam Á sau khi người Pháp đi khỏi Đông Dương. Nhận thấy tình hình đó rất nguy hiểm, ông muốn Hoa Kỳ phải đặt chân vững chắc trong vùng và dùng Việt Nam như một mắt xích chủ yếu của vành đai an toàn – vòng bao vây địch mà ông hy vọng thiết lập xung quanh Trung Cộng vốn đã kiểm soát toàn bộ lục địa Trung Hoa rộng lớn. Trong lúc Hội nghị tạm lắng, các đại biểu Mỹ muốn các quân bài đôminô đổ theo dây chuyền kêu toáng lên. Ngày 26/7, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ đã thông báo cho các đại biểu hai đảng tại Quốc hội rằng Hoa Kỳ phải cáng đáng trách nhiệm nhiều hơn ở châu Á. Để chắc chắn nền tự do cũng sẽ được duy trì ở đây, ông ta muốn thành lập một liên minh khu vực dựa trên mô hình Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) ở châu Âu. Tuy nhiên, lập trường của Mỹ tại Geneva không được mấy ai ủng hộ khi Mendès-France được chỉ định là người đứng đầu Chính phủ Pháp và Dulles bắt đầu tính chuyện lâu dài hơn sau khi các nhà thương lượng trở về nước.

Dulles không phải là người duy nhất nghi ngại. Nhân danh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng tuyên bố, Việt Minh thực tế đã kiểm soát hiệu quả phần lớn lãnh thổ ở miền Bắc và miền Nam thì họ phải được nắm quyền toàn bộ đất nước. Các nhà thương lượng của Bảo Đại thì muốn bằng mọi giá tình hình Việt Nam vẫn giữ nguyên, không bị cộng sản miền Bắc xâm phạm. Được Mỹ khuyến khích, Chính phủ Bảo Đại cuối cùng từ chối không chịu ràng buộc vào bản Thỏa thuận cuối cùng và giữ vững lập trường của mình.

Anh đang dính líu vào một cuộc chiến tranh du kích với những người nổi dậy Trung Hoa ở bán đảo Mã Lai, lúc đầu ủng hộ lập trường của Mỹ, có quan điểm chung với Mỹ trong lợi ích của phương Tây là “ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản châu Á”. Rồi Anthony Eden trở mặt tuyên bố: Việt Nam không phải là Mã Lai và các thuộc địa Pháp không phải là thuộc địa Anh. Nếu Mendès-France muốn dàn xếp, Eden sẽ vui lòng ủng hộ.

Chính lúc đó, đại biểu của Xô Viết lên tiếng. Hướng về các nhà ngoại giao đang ngồi quanh bàn Hội nghị, Molotov thông báo: Giải pháp đơn giản nhất theo con mắt của chính phủ ông là trao trả độc lập cho các nước Đông Dương và giữ cho họ trung lập, đứng ngoài các cuộc tranh chấp trong Chiến tranh lạnh giữa Đông và Tây. Eden đánh giá rằng đó là một lập trường hợp lý và đặt trọng lượng của nước ông đằng sau sáng kiến của Liên Xô. Trung Quốc cũng vậy, chấp nhận gợi ý của Liên Xô.

Tuy nhiên, điều không thể chấp nhận đối với Phạm Văn Đồng là Việt Nam sẽ tạm thời chia làm hai chính phủ, Chính phủ Hồ Chí Minh ở miền Bắc và Bảo Đại ở miền Nam. Các cuộc tuyển cử trong cả nước sẽ được tổ chức sau này để chấm dứt sự chia cắt và quyết định Hồ Chí Minh hay Bảo Đại là người đứng đầu toàn bộ đất nước. Không thể thuyết phục được hai nước Liên Xô và Trung Quốc là những nước duy nhất thừa nhận chính phủ của ông từ bỏ lập trường ấy, Phạm Văn Đồng suýt nữa đã bỏ Hội nghị ra về. Về sau, phải có những nỗ lực phối hợp giữa Molotov, Chu Ân Lai và Eden để thuyết phục Phạm Văn Đồng chấp nhận điều khoản này.

Thế là bắt đầu những cuộc mặc cả gay go. Đường phân tuyến chia cắt Việt Nam sẽ đặt ở đâu? Phạm Văn Đồng muốn càng xa vào miền Nam càng tốt, trong khi Bidault tiếp tục mơ ước một vùng ảnh hưởng rộng lớn với sự có mặt của Pháp ở Việt Nam, thì lại muốn ngược lại, đường phân tuyến càng lùi xa về miền Bắc càng tốt. Ngay cả sau này khi hoàn cảnh thuận lợi, xứ Bắc Kỳ sẽ một ngày kia trở thành thành viên của khối Liên hiệp Pháp. Vì vậy, Bidault hy vọng sẽ đẩy lùi thời hạn tổng tuyển cử trong một tương lai càng xa càng tốt, trong lúc Phạm Văn Đồng trái lại muốn các cuộc tuyển cử phải đưa vào chương trình và tiến hành càng sớm càng tốt. Đoàn đại biểu Việt Minh ở Geneva không gặt hái được thành công như Võ Nguyên Giáp ở Điện Biên Phủ.

Trong lúc tại Geneva các cuộc mặc cả tiếp tục, Dulles bắt đầu thực hiện các kế hoạch để đưa Mỹ can thiệp vào các vấn đề Đông Dương. Bản thân ông ta và người em trai là Allen – Giám đốc CIA – gặp đại tá Edward G. Lansdale, một sĩ quan không quân biệt phái sang CIA vừa ở Philippines trở về sau một thắng lợi đầy ấn tượng là đưa được Ramon Magsaysay lên làm Tổng thống và Washington đập tan cuộc khởi nghĩa Hukbalahap có thiên hướng cộng sản ở xứ này.

Phấn khởi và xúc động trước chiến công đó, hai anh em Dulles phái Lansdale đến Việt Nam với nhiệm vụ làm mọi cách có thể để củng cố chính phủ không cộng sản và làm suy yếu chế độ miền Bắc, thậm chí tiến hành cả các hoạt động biệt kích bán quân sự để phá hoại cơ sở vật chất ở miền Bắc và dùng chiến tranh tâm lý để phá hoại mọi sự ủng hộ của nhân dân miền Bắc với Hồ Chí Minh. Lansdale đến Sài Gòn ngày 1/6/1954 và bắt tay ngay vào việc tập hợp một ê kíp cộng tác viên được ông đặt tên là Phái đoàn Quân sự tại Sài Gòn.

Vài ngày sau, tại lâu đài của mình ở Cannes (Pháp), Bảo Đại chọn Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam. Ngô Đình Diệm trởvề Sài Gòn ngày 26/6. Vào Dinh Norodom, ông không thấy một người nào ủng hộ ông, không có một viên chức nào trong phòng làm việc. Ngày hôm sau ông tiếp một khách đến thăm bất ngờ, đó là Lansdale. Ông này khuyến khích ông bắt tay vào việc và chờ đón khoản viện trợ quan trọng của Hoa Kỳ. Ngày 7/7 Diệm chính thức đảm nhiệm mọi nghĩa vụ của chức vụ Thủ tướng của mình.

Các hiệp định hay là Bản Tuyên bố Cuối cùng của Hội nghị Geneva về Đông Dương theo tên được các bên đặt, được ký ngày 21/7/1954. Tất nhiên đó là một thỏa hiệp không làm ai thỏa mãn. Ở Việt Nam, một cuộc ngừng bắn có hiệu lực ngay lập tức. Hiệp định ngừng bắn được kí kết giữa tướng Tạ Quang Bửu thay mặt cho Việt Minh và tướng Henri Delteil thay mặt cho phía Pháp. Hai nước Lào và Campuchia trở thành hai vương quốc độc lập và trung lập. Nước Pháp cũng như chính phủ Hồ Chí Minh phải rút quân khỏi các nước này.

Chỉ một nét bút, nước Việt Nam bỗng dưng bị chia đôi một cách giả tạo theo dọc vĩ tuyến 17 bất chấp sự thận trọng của các bên tham gia Hội nghị, quy định rằng ranh giới đó trong bất kỳ trường hợp nào không được hiểu như là biên giới chính trị hay lãnh thổ. Việc chia cắt chỉ là tạm thời. Hai vùng sẽ thống nhất trước tháng 7/1956 bằng tuyển cử tự do và dân chủ. Nước Pháp rút quân khỏi miền Bắc và Việt Minh rời khỏi miền Nam trong thời hạn 300 ngày. Trong thời hạn đó, thường dân có thể tận dụng cơ hội để nói lên nguyện vọng muốn sống ở miền Bắc hay miền Nam, trong khi đó họ có quyền tự do chuyển vùng. Cấm quân đội nước ngoài đi vào lãnh thổ Việt Nam. Một Ủy ban Kiểm soát và Giám sát quốc tế gồm đại biểu Ba Lan, Ấn Độ và Canada sẽ giám sát thực hiện các hiệp định này.

Hoa Kỳ từ chối ký tên, yêu cầu khẩn thiết đại biểu chính quyền Bảo Đại cũng rút bỏ chữ ký của họ(1). Do đó trong phiên họp bế mạc hội nghị, đại biểu của Bảo Đại tố cáo hiệp định. Thay mặt Hoa Kỳ, Walter Bedell Smith trong một bản tuyên bố đơn phương khẳng định rằng nước ông không dùng vũ lực hoặc đe dọa để gây trở ngại cho hiệp định, nhưng sẽ lo lắng trước mọi cuộc xâm lược mà Hoa Kỳ coi như sự vi phạm các hiệp nghị chống lại hòa bình và an ninh quốc tế, Hoa Kỳ sẽ làm hết sức mình để cuộc tuyển cử tự do sắp tới được Liên Hợp Quốc giám sát.

Chiến thắng Điện Biên Phủ khiến tên tuổi của Võ Nguyên Giáp được biết đến trên trường quốc tế. Bernard Fall viết: “Bằng một chiến lược xuất sắc, ông thầy giáo dạy sử nhỏ bé với tri thức khoa học quân sự khổng lồ, phần lớn do tự học, đã làm thất bại hoàn toàn các ý đồ của các tướng lĩnh và đại tá Pháp tốt nghiệp ở các trường đại học quân sự danh tiếng”. Davidson đã cho những lời phê phán đối với Võ Nguyên Giáp là “phiến diện” và đánh giá Võ Nguyên Giáp là “con người hiểu biết chắc chắn các cơ sở của chiến lược, một sĩ quan có nhiều trí tưởng tượng, một người đáng được khen ngợi, người ta có thể tết cho ông vành nguyệt quế.” Từ nghiệp dư trở thành chuyên nghiệp, Võ Nguyên Giáp đáng nhận được lời khen ngợi cao nhất như một “nhà hậu cần”, bởi vì theo Davidson, đó là khả năng tiếp tế cho quân lính ở Điện Biên Phủ những điều kiện có lẽ là tồi tệ nhất. Đó là “một chiến công hạng nhất”. Davidson cũng cho rằng, Võ Nguyên Giáp còn giành được một chiến công lớn hơn nữa. “Đó là về mặt tổ chức, quản lý và khả năng động viên binh sĩ mà ông giỏi hơn cả. Trong lĩnh vực đó, ông là một thiên tài”.

Nhiều người khác cũng nghĩ như vậy. O’Neill viết: “Giáp không chỉ chứng tỏ ông có một chiến lược đã được thử thách bằng cách chấp nhận giao chiến ở Điện Biên Phủ mà ông còn có một chiến thuật đỉnh cao được biểu hiện trong suốt diễn biến của trận đánh. Đặc biệt xuất sắc là cách sử dụng pháo binh để cắt đường tiếp tế đường không của Pháp và một loạt cuộc tiến công theo từng đợt liên tiếp, chống lại hệ thống phòng ngự của địch trước hết là bên này sau đó là bên khác”. O’Neill ghi nhận công trạng của nhà lãnh đạo quân sự Việt Nam đã biết thực hiện các nguyên tắc mềm dẻo và bất ngờ. O’Neill tóm tắt: “Ông là một nhà thực hành có tài chiến lược chiến thuật.”

Võ Nguyên Giáp có lý do để không đưa đội quân của ông về Hà Nội diễu hành ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Chưa đến lúc giảm sức ép đối với quân đội Pháp, nếu không, những người chỉ huy quân đội Pháp sẽ cho rằng Việt Minh cũng gần như kiệt sức. Các đại đoàn của Võ Nguyên Giáp đã chịu đựng những tổn thất khổng lồ. Tinh thần quân sĩ sa sút ngay giữa lúc đang diễn ra trận Điện Biên Phủ. Võ Nguyên Giáp cần có thời gian để cho quân đội học tập chính trị nhiều hơn nữa, chỉ có thể làm tốt hơn nếu duy trì bộ đội trong kỷ luật thời chiến. Chính vì vậy, ông không cho bộ đội được tự do trước khi Hiệp đình đình chiến có hiệu lực theo quy định của Hội nghị Geneva là ngày 1/8/1954. Suốt mùa hè năm đó, Võ Nguyên Giáp tiếp tục tăng cường gây sức ép với quân đội Pháp. Trên cao nguyên miền Trung, bằng một loạt trận phục kích, quân đội của ông đã gây nhiều tổn thất nặng nề cho binh đoàn 100 (mất 3.000 người). Điều này cho phép Việt Minh chiếm thêm nhiều thành phố và phái nhiều cán bộ gây cơ sở. Tuy nhiên, số cán bộ này cũng rút về phía bến sông Bến Hải vào tháng 8.

Chỉ đến ngày 10/10/1954, Võ Nguyên Giáp và Đại đoàn chủ lực 308, đội tiên phong của đội quân giải phóng năm xưa mới kiêu hãnh tiến vào Hà Nội. Những nhóm cán bộ vào tiếp quản thành phố phải đợi đến ngày 3/10 mới vào, không thể sớm hơn vì sợ những cuộc trả thù của Pháp. Khi những người lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội ngày 9/10, không bao lâu các nhà lãnh đạo cao cấp của Việt Minh vào thành phố, riêng Hồ Chí Minh đợi đến ngày 17/10. Đa số chiến sĩ của Đại đoàn 308 không được gặp lại gia đình từ 8 năm nay, từ đêm 19/12/1946 – ngày mà họ thì thầm sẽ mau chóng trở lại và biến đi trong đêm tối trong lúc quân Pháp đuổi sau lưng. Bây giờ họ xiết bao vui mừng trong niềm vui được gặp lại người thân. Hai ngày sau khi trở về, Võ Nguyên Giáp đến nhà máy điện để thảo luận các vấn đề hợp tác kỹ thuật với các kỹ sư Pháp còn ở lại để tiếp tục bảo đảm sự vận hành của thiết bị. Còn nhiều việc phải làm trong những ngày chuyển giao từ chế độ Pháp sang chế độ Việt Nam.









 

1. Chỉ có các Hiệp định đình chỉ chiến sự mới có đại biểu Bộ chỉ huy quân đội hai bên cùng ký tên, do không nhất trí về nội dung nên các đoàn đại biểu của các nước tham gia Hội nghị không ký tên vào Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneva về Đông Dương. Các bản tuyên bố đơn phương của từng đoàn đại biểu trong phiên bế mạc Hội nghị cũng được coi như văn kiện chính thức của Hội nghị (ND).

<<Chương 14 “Mồ hôi và công sức của binh sĩ” Chương 16 “Sai lầm và khuyết điểm chỉ là tạm thời” >>

Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Cờ lau dựng nước

Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt