Chiến thắng bằng mọi giá

Chương 6 “Niềm vui vô hạn”

<<Chương 5 “Mỗi người dân là một người lính” Chương 7 “Hoan nghênh các bạn người Mỹ” >>

Chương 6 “Niềm vui vô hạn”

Lịch sử cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai đã ghi dấu ấn tên tuổi của nhiều vị tướng chỉ huy quân sự tầm cỡ ở nhiều nước. Tiếng tăm và vinh quang của họ gắn liền với các trận giao tranh ác liệt trên những chiến trường đẫm máu. Đó là binh đoàn châu Phi của Đức dưới quyền tướng Erwin Rommel đã quần nhau với quân Anh của tướng Bernard Law Montgomery trên sa mạc Bắc Phi. Trên cánh đồng cỏ phủ tuyết trắng ở Stalingrad, dưới gió rét cắt da cắt thịt, tướng Nga Georgi Zhukov đã cầm cự dai dẳng chống lại tướng Đức Friedrich Paulus. Trong vùng núi hoang vu dọc sông Irrawaddy ở Miến Điện, tướng Anh Orde Wingate chỉ huy đội quân người Ấn Độ đã chiến đấu ngoan cường chống lại quân Nhật. Còn tướng Mỹ Douglas MacArthur thì tuy bi quan trong Tổng hành dinh đặt ở Australia, nhưng vẫn lên kế hoạch mở những cuộc tiến công liên tiếp và mãnh liệt vào các đảo ở Tây Nam Thái Bình Dương để đánh bại các cuộc hành quân của phát-xít Nhật. Trên đường tiến về Rome ở bắc bán đảo Italia, quân Mỹ của tướng Mark Clark đã vấp phải cuộc kháng cự tuyệt vọng của quân Đức dưới sự chỉ huy của tướng Albert Kesselring. Trên đất Anh, tướng Mỹ Dwight Eisenhower xây dựng kế hoạch đổ bộ ồ ạt lên lục địa châu Âu, kế hoạch này được giao cho các tướng lĩnh dưới quyền thực hiện, mà tên tuổi không thể kể hết: Bradley, Patton, Hodges, Collins, Patch, Gerow, Simpson, Sutherland, Cota.

Những vị tướng lừng danh đó đã huy động hàng chục vạn con người trong các trung đoàn, sư đoàn, quân đoàn vào các cuộc hành quân. Họ dùng những xe jeep nhãn hiệu Willys, Overland, những xe bánh xích của hãng Chevrolet, những xe tăng Chrysler, xe tải Ford, những súng trường Springfi eld và Singer. Ngành công nghiệp đã được động viên toàn lực để phục vụ một cuộc chiến tranh quy mô chưa từng có trong lịch sử. Các máy bay chở hàng, các con tàu vừa mới hạ thủy, từng đoàn xe lửa, những xe có trọng tải gấp hai lần rưỡi mức bình thường, các tàu lượn và các cánh dù ném quân đội vào chiến trường. Trong kế hoạch tác chiến, các bộ tham mưu hai bên đã phải trù tính mức hao phí mỗi phút đến tám mươi tấn đạn các loại, hàng triệu thùng xăng dầu cho các phương tiện cơ giới. Nếu không đủ chất đốt, xe cộ sẽ bị nung đỏ và tê liệt, mọi cố gắng chiến tranh sẽ hoàn toàn vô ích.

Còn phải kể đến hàng triệu điếu thuốc lá cho quân lính, hàng trăm ngàn chuyến xe thư quân đội chuyển phát nhanh vô vàn thư từ của quân nhân gửi về gia đình, cha mẹ, vợ con, bạn bè, người yêu ở hậu phương. Quân lính còn được cung cấp kẹo cao su, giấy vệ sinh, kẹo sôcôla và những túi lương khô có hàm lượng cao về năng lượng và calo. Phần lớn quân nhân, ít nhất cũng là đột xuất, được ăn thức ăn nóng sốt do các xe nấu ăn lưu động đem đến. Binh lính đi giày cao cổ, nặng nề, khi mòn đế lại được thay mới. Và họ có thể bỏ đi bất cứ thứ gì không cần thiết. Chiến trường và trên đường ra trận đầy ắp vật liệu phế thải sau khi được sử dụng một cách hết sức lãng phí. Và mỗi ngày qua đi, hiện tượng phung phí đó càng tăng lên gấp bội.

Thế nhưng không phải đội quân nào cũng được hưởng thụ thừa thãi như thế. Mấy năm đó, trong lúc từng đội quân hiện đại di chuyển trên những cánh đồng châu Âu hoặc từ đảo này sang đảo khác ở Thái Bình Dương, rồi được ban thưởng vô số huy chương và vinh dự thì Võ Nguyên Giáp lặn lội qua lại các khu rừng, hẻm núi ở Bắc Kỳ, chân đi dép lốp, đôi khi mặc bộ quần áo chàm giống như quần áo thường mặc của dân địa phương. Mỗi khi đi công tác một mình, đầu óc ông bận rộn toan tính những giải pháp cho các vấn đề tiếp tế cho bộ đội của ông đang gặp khó khăn. Tất cả mọi thứ đều phụ thuộc vào việc tự cung cấp. Không một quân đội nào có thể chiến đấu một mình… Quân đội cần súng, đạn, mìn, liên thanh, súng cối, pháo để tác chiến còn người lính thì cần lương thực, trang phục và nơi trú ẩn.

Võ Nguyên Giáp cân nhắc, suy nghĩ rất nhiều khi phải tính toán chi tiết các vấn đề về hậu cần cho quân đội. Nếu một dân công gánh được 25 kg gạo đi được 18 cây số ban ngày và 25 cây số ban đêm thì phải huy động bao nhiêu dân công để yểm trợ cho 400 người đang chiến đấu kéo dài 10 ngày để tiến công một mục tiêu cách xa 200 cây số? Đó là những tính toán cần thiết và bổ ích. Nhờ tìm ra những giải pháp hữu hiệu, sau này Võ Nguyên Giáp đã đối phó được với những đội quân hùng mạnh nhất của phương Tây lần lượt đến xâm lăng và đã rất vất vả để hòng đánh bại Việt Nam bằng quân sự, ngăn chặn làn gió cách mạng mà Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và các bạn chiến đấu của ông đã gieo mầm từ sớm.

Tháng 7/1944, Chính phủ Vichy của Petain sụp đổ. Quân Đức bị dồn vào những vùng nước Pháp chưa được Đồng minh giải phóng. Tình hình đó đã đem lại cho Võ Nguyên Giáp chút hy vọng. Ông tính toán rằng sự thay đổi chính phủ ở Pháp sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động của Việt Minh. Ông dự kiến cuộc “đảo chính Nhật” ở Đông Dương là không tránh khỏi. Người Nhật muốn xóa hết mọi thứ còn lại của bộ máy thống trị Pháp ở Đông Dương. Đây chính là thời cơ mới cho cách mạng.

Cuối tháng 7/1944, phấn khởi trước sự phát triển của phong trào, trong lúc Hồ Chí Minh vắng mặt, Liên tỉnh ủy Việt Minh Cao - Bắc - Lạng triệu tập hội nghị để xem xét khả năng phát động khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị diễn ra trang trọng trong hang Pắc Bó, được trang hoàng như ngày hội, có cổng chào kết lá và gần đấy trên đỉnh cột cờ phấp phới lá cờ lớn màu đỏ, sao vàng năm cánh ở giữa. Bên trong hang xếp những dãy bàn dài cho đại biểu ngồi làm việc. Nơi ăn, nghỉ đã sẵn sàng. Ba vòng bảo vệ liên tiếp nhau do các đội tự vệ vũ trang người Mán đảm nhiệm. Cứ mỗi hành lang đi vào địa điểm là có chòi canh nghiêm mật đảm bảo triệt để an ninh cho hội nghị. Ngoài ra, ở các điểm trọng yếu trên tuyến bảo vệ vòng ngoài còn có các lực lượng vũ trang của Việt Minh chốt giữ.

Võ Nguyên Giáp kể lại: “Một niềm vui vô hạn tràn ngập trong lòng mọi người. Đông đảo các đại biểu từ các cơ sở trong liên tỉnh tụ tập về đây để quyết định một chủ chương được mọi người mong muốn từ lâu sau nhiều tháng đấu tranh gian khổ chống khủng bố trắng của địch.” Hội nghị ra nghị quyết: căn cứ vào tình hình thế giới, tình hình trong nước và sự phát triển của phong trào Việt Minh, thời cơ phát động khởi nghĩa đã đến. Trong vòng hai tháng, gặt hái xong sẽ hoàn tất mọi công việc chuẩn bị để chuyển sang hành động vào khoảng tháng 9/1944.

Giọng Võ Nguyên Giáp đầy say mê khi hào hứng kể lại: “Không khí tiền khởi nghĩa tràn đầy hy vọng và vô cùng phấn khởi bao trùm khắp thôn bản ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng. Mọi người vui mừng reo lên khi được tin sắp có khởi nghĩa.” Mọi việc chuẩn bị được tiến hành tích cực trong vòng bí mật. Để che mắt quân Pháp, người dân vẫn tỏ ra tiếp tục cam chịu số phận một cách thầm lặng. Đằng sau bề ngoài lặng lẽ đó là công việc chuẩn bị hết sức khẩn trương. Từ cuối tháng 7 và sang đến tháng 8, cán bộ Việt Minh đi khắp các thôn bản để mua sắm rèn chế vũ khí các loại. Lựu đạn cầm tay là thứ vũ khí đặc biệt phổ cập, ai cũng tìm cách có ít ra là một quả để phòng thân và đánh địch. Giáp ra lệnh mỗi khẩu súng có 150 viên đạn dự phòng.

Thóc được phơi khô, cất giữ trong các kho chứa kín đáo, ẩn sâu trong rừng. Lương thực người dân đóng góp nhiều hơn cả mức quy định mà Việt Minh đưa ra. Võ Nguyên Giáp kể lại, có một phụ nữ đứng tuổi đã bán đi một nửa tài sản để mua vũ khí trang bị cho mình và các con trong nhà. Tháng 9, vụ gặt sắp kết thúc, ở nhiều nơi đã nghe thấy những phát súng đầu tiên báo hiệu thời kỳ hành động vũ trang sắp tới.

Vừa lúc đó, Hồ Chí Minh từ Trung Quốc trở về. Sau khi nghe báo cáo về quyết định khởi nghĩa, ông yêu cầu đình chỉ mọi việc chuẩn bị. Ngày 19/11, Hồ Chí Minh gặp Võ Nguyên Giáp tại Pắc Bó. Võ Nguyên Giáp báo cáo: “Tất cả mọi người đã sẵn sàng. Phong trào Nam tiến giành chính quyền đã được chuẩn bị chu đáo. Giờ tất cả chỉ còn chờ hiệu lệnh của Bác.” Hồ Chí Minh lắc đầu, nói với Võ Nguyên Giáp: “Giờ chưa phải là thời cơ. Trình độ giác ngộ của quần chúng chưa chín muồi. Sự đồng tâm nhất trí chưa cao. Một hành động “non” sẽ làm hại sự nghiệp chung”… Hồ Chí Minh cho rằng quyết định khởi nghĩa chỉ căn cứ vào tình hình địa phương ở Cao - Bắc - Lạng, chứ không căn cứ vào tình hình chung của cả nước… chủ trương như vậy là chỉ nhìn một bộ phận mà không xét đến toàn cục. Hồ Chí Minh giải thích cho Võ Nguyên Giáp về những khó khăn xảy ra nếu khởi nghĩa “non”. Phong trào đã phát triển rộng nhưng vẫn chưa lập được căn cứ địa vững chắc. Một khi phong trào bị đàn áp, cán bộ cách mạng và quần chúng có cảm tình sẽ bị kẻ địch truy lùng và tiêu diệt. Ông nói:

  • Chúng ta sẽ giải quyết vấn đề bảo vệ quần chúng và sơ tán dân như thế nào khi địch xông vào từng làng, từng thôn bản, từng dãy núi, từng địa phương? Chúng ta sẽ tổ chức cuộc sống cho dân ra sao khi đưa họ vào rừng? Làm sao Việt Minh có thể tiếp tục sản xuất thêm vũ khí khi cuộc khủng bố đàn áp của địch kéo dài?

Võ Nguyên Giáp im lặng chưa tìm được câu trả lời. Hồ Chí Minh nói tiếp: “Lúc này chúng ta cần phát triển những phương thức mới để đáp ứng với tình hình mới. Phong trào chính trị hiện thời đã phát triển nhưng gặp nhiều tổn thất. Đội quân của chúng ta còn thiếu kinh nghiệm. Chúng ta phải lựa chọn những người tốt nhất và tổ chức họ vào Đội quân giải phóng.”

Đêm đã về khuya. Trong câu chuyện bên bếp lửa kéo dài, Võ Nguyên Giáp lại thấy trong lòng phơi phới, lấy lại lòng tin vào tiền đồ cách mạng, xua đi tâm trạng thất vọng khi thấy phải hoãn khởi nghĩa vũ trang. Hồ Chí Minh khuyên ông biết kiên nhẫn, chờ thời cơ: “Thời kỳ phát triển hòa bình đã qua nhưng thời kỳ vũ trang khởi nghĩa chưa tới […] Do đó, chúng ta phải có phương thức hành động thích hợp để đẩy phong trào tiến lên”.

Hồ Chí Minh đã nghĩ đến việc thành lập đội quân vũ trang chủ lực đầu tiên của Việt Minh: “Đây là việc hệ trọng. Đoàn thể giao cho chú cáng đáng. Chú có làm được không? Chúng ta bây giờ còn yếu, địch lại đang mạnh nhưng chúng không thể tiêu diệt được ta. Có phải không?”.

Võ Nguyên Giáp trả lời ngay: “Thưa Bác, làm được!” Võ Nguyên Giáp nhớ lại: “Được Bác Hồ giao trách nhiệm mới tôi thấy rất vui. Tôi nghĩ đến ngày cắm cờ đỏ sao vàng lên đỉnh núi Phia-U-oác.” Biết rằng đánh du kích rất gian khổ và đầy nguy hiểm, Võ Nguyên Giáp đã nghĩ ông có thể bỏ mạng trong rừng núi Cao - Bắc - Lạng.

Đêm hôm đó, cùng nằm bên cạnh, Võ Nguyên Giáp nghe Hồ Chí Minh nói chuyện đến 3 giờ sáng. Trong cái đêm lạnh giá đó, không một ánh lửa, đầu gối lên một khúc gỗ, hai người phác ra kế hoạch đánh du kích để lật đổ chính quyền thuộc địa. Hồ Chí Minh vạch ra những nét lớn về tổ chức và cách thức hoạt động của đội quân giải phóng. Ông cũng nói cả vấn đề tiếp tế lương và đạn dược. Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh nếu chúng ta biết dựa vào quần chúng nhân dân thì kẻ địch sẽ không bao giờ tiêu diệt nổi chúng ta.

Từ hôm sau Võ Nguyên Giáp bắt tay ngay vào công việc. Ông tìm hai đồng chí tin cậy là Vũ Anh và Lê Quảng Ba, đưa họ đến sau hang Pắc Bó để thảo luận chi tiết cách thức tổ chức, lựa chọn cán bộ cho đội quân giải phóng. Họ chọn Hoàng Sâm(1) làm đội trưởng quân sự và Xích Thắng(2) làm chính trị viên. Lực lượng lúc đầu gồm một trung đội có ba tiểu đội chọn từ các đội tự vệ vũ trang ở các huyện Hà Quảng, Hòa An và Nguyên Bình. Trong lúc họ đang thảo luận thì Hồ Chí Minh đến ngồi nghe và khi ba người quay nhìn ông, ông gật đầu tỏ ý tán thành. Ông nhấn mạnh phải luôn luôn nhớ: “Tinh thần quần chúng bao giờ cũng phải mạnh hơn vũ khí. Nếu chúng ta có thể dựa vào dân thì không kẻ thù nào đánh bại được chúng ta.”

Đêm hôm đó, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp còn tiếp tục trao đổi, bàn bạc đến khuya về viễn cảnh của đội quân giải phóng. Hồ Chí Minh nói: “Trong một cuộc cách mạng, yêu cầu của nhân dân phải đặt lên hàng đầu”.

Khi đó, Hồ Chí Minh gợi ý đặt tên cho đội quân tương lai là Đội quân Giải phóng Việt Nam. Ngày hôm sau, Hồ Chí Minh lại gọi riêng Võ Nguyên Giáp và nói thêm muốn đưa phong trào lên cao thì hoạt động của quân giải phóng lúc này là phải coi trọng chính trị hơn quân sự. Và đội quân giải phóng sẽ lấy tên là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân có nhiệm vụ giác ngộ và tổ chức quần chúng, hoạt động chính trị phải đặt lên trên tác chiến và công tác tuyên truyền giác ngộ dân chúng phải quan trọng hơn tiến công quân sự.

Vậy là Võ Nguyên Giáp – một cựu giáo viên dạy sử ở trường trung học – giờ đã được giao chỉ huy một đội quân chưa hình thành. Cũng như trước đây Quốc hội Mỹ năm 1775 đã bổ nhiệm George Washington chỉ huy một đạo quân chưa hình thành ở châu Mỹ thì nay Võ Nguyên Giáp cũng được giao nhiệm vụ chỉ huy một lực lượng chưa có quân số, chưa được tổ chức và chưa được huấn luyện thành thục. Như vậy, trong một hang sâu được chiếu sáng bằng những ngọn đuốc, ông đã bắt đầu cuộc đời binh nghiệp của mình với tư cách là người chỉ huy quân sự đầu tiên của nước Việt Nam. Lúc đó ông mới 33 tuổi.

Tuy đã nói với Võ Nguyên Giáp chi tiết về cách thức tổ chức đội quân cách mạng nhưng Hồ Chí Minh vẫn viết nhiều chỉ thị liên quan đến tổ chức các đơn vị chính quy và trong nhiều lần gặp gỡ, hai người đều nghiên cứu xem xét chi tiết sức mạnh quân sự của Pháp và tình trạng thực tế của đối phương. Họ trao đổi về trình độ khả năng của cán bộ, về công tác hậu cần, tiếp tế cho bộ đội, về các vùng có thể ưu tiên lập căn cứ.

Hồ Chí Minh yêu cầu trong vòng một tháng phải xuất quân đánh một trận, một trận táo bạo, tấn công quyết liệt để giành phần thắng. Đánh thắng trận đầu đó sẽ có tác dụng rất lớn về mặt tuyên truyền gây thanh thế cho Việt Minh. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Phải bí mật, nhanh chóng, tích cực. Một lần đánh ở tây, lần khác đánh ở đông, tạo thế bất ngờ khiến địch không kịp trở tay. Ra đi không trống giong, cờ mở, trở về không để lại dấu vết (Hồ Chí Minh nhắc lại câu trong Binh pháp của Tôn Tử: “Lai vô ảnh, khứ vô hình”).

Võ Nguyên Giáp tổ chức gặp gỡ với những người chỉ huy trung đội ở Hà Quảng. Các buổi thảo luận diễn ra khá sôi nổi bởi sự có mặt của những người vừa học các lớp quân sự ở Trung Quốc trở về. Họ dùng một tảng đá lớn dưới một gốc cây cổ thụ trong khu rừng già làm bàn viết. Họ nên mở cuộc tiến công như thế nào là tốt nhất? Lựa chọn mục tiêu như thế nào? Làm thế nào để giành phần thắng mà không phải hy sinh quá nhiều sinh mạng và hao phí súng đạn? Đánh mục tiêu cố định hay mai phục đánh địch đang di chuyển? Súng đã hiếm, đạn còn hiếm hơn nữa. Mỗi khẩu chỉ có 20 viên đạn. Một ngày thảo luận sôi nổi kết thúc bằng bữa tiệc thịt khỉ mà họ bắt được trong rừng.

Cuối cùng Võ Nguyên Giáp chọn được 34 người để lập nên đơn vị đầu tiên của đội quân chủ lực của cách mạng. Ông đặt tên là Trung đội Trần Hưng Đạo(3) theo tên gọi của vị anh hùng dân tộc. Họ là người được lựa chọn trong số các tiểu đội trưởng, các chỉ huy trung đội hay những đội viên có phẩm chất tư cách đặc biệt xứng đáng và thành tích xuất sắc của các toán vũ trang địa phương trong thung lũng Đình Cả. “Quân đội” ấy ban đầu chỉ có hai khẩu súng lục, 17 khẩu súng trường, 14 cạc-bin và một trung liên, trong đó có những khẩu cổ lỗ đã có từ thời Chiến tranh Nga - Nhật năm 1905.

Ngày 22/12/1944, vào lúc 5 giờ chiều, Võ Nguyên Giáp chủ trì lễ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Đó là một chiều mùa đông giá rét nhưng mọi người đều hết sức phấn khởi. Lần đầu tiên họ tập hợp đứng dưới ngọn cờ đỏ sao vàng năm cánh. Võ Nguyên Giáp đọc một bài diễn văn dài nhấn mạnh tầm quan trọng và trách nhiệm của mỗi người từ nay phải gánh vác. Ông nói: “Chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến. Chúng ta sẽ đặt cao hơn hết thảy tinh thần hy sinh anh dũng.”

Ông kêu gọi tinh thần hy sinh, chịu đựng gian khổ, triệt để tuân theo kỷ luật và tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên.

Tất cả mọi người đọc vang 10 lời thề:

  1. Hy sinh tất cả vì Tổ quốc để Việt Nam trở thành một nước độc lập.

  2. Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của cấp chỉ huy, khi nhận được mệnh lệnh gì sẽ tận tâm, tận lực thi hành cho nhanh chóng và chính xác.

  3. Bao giờ cũng kiên quyết chiến đấu, dù gian lao khổ sở cũng không phàn nàn, vào sống ra chết cũng không sờn chí, khi ra trận quyết chí xung phong, dù đầu rơi máu chảy cũng không lùi bước.

  4. Lúc nào cũng khẩn trương hoạt bát, hết sức học tập để tự rèn luyện thành một quân nhân cách mạng, xứng đáng là một người chiến sỹ tiên phong giết giặc cứu nước.

  5. Tuyệt đối giữ bí mật.

  6. Khi ra trận nếu bị quân địch bắt được, thì không bao giờ cung khai phản bội.

  7. Hết sức ái hộ bạn chiến đấu, hết lòng giúp đỡ nhau lúc thường cũng như lúc ra trận.

  8. Hết sức giữ gìn vũ khí.

  9. Khi tiếp xúc với dân sẽ làm đúng ba điều răn: “không lấy của dân” – “không dọa nạt dân” – “không quấy nhiễu dân” và ba điều nên: “kính trọng dân” – “giúp đỡ dân” – “bảo vệ dân”, để gây lòng tin cậy đối với dân chúng, thực hiện quân dân nhất trí giết giặc cứu nước.

  10. Nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, giữ tư cách cá nhân mô phạm, không làm điều gì hại đến thanh danh Giải phóng quân và Quốc thể của Việt Nam.

Sau mỗi lời thề được Võ Nguyên Giáp dõng dạc đọc lên, mọi người hô vang: “Xin thề!”.

Sau này Võ Nguyên Giáp kể lại những người có mặt trong buổi lễ chiều hôm đó đều chứa chan phấn khởi, tin tưởng vào tương lai, vào tiền đồ của đội quân giải phóng, sẵn sàng hy sinh cho cách mạng. Để kỷ niệm ngày thành lập đáng ghi nhớ, nêu cao truyền thống cách mạng, buổi lễ kết thúc bằng bữa cơm đạm bạc không rau không muối do đồng bào địa phương ủng hộ. Khi bóng đêm phủ hết tán rừng, giữa làn gió lạnh mọi người ngồi xung quanh đống lửa nói chuyện đến nửa đêm. Võ Nguyên Giáp kể lại: “Trong một đêm đông giá buốt, giữa rừng sâu, quân đội đã được khai sinh như thế đó”.

Hồ Chí Minh muốn có một thắng lợi đầu tiên sau khi thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Chỉ bốn ngày sau khi nhận nhiệm vụ và hai ngày sau lễ thành lập, ngày 24/12/1944 Võ Nguyên Giáp và đội quân mới ra đời đã tấn công liền hai đồn tiền tiêu của Pháp ở Phai Khắt và Nà Ngần, cách nhau 25 km trong vùng giáp ranh ba tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn và Lạng Sơn. Hai đồn tiền tiêu đó quả là lý tưởng. Tại đó lính Pháp đã chiếm những nhà ở của dân làng là đồng chí của Võ Nguyên Giáp để biến thành đồn trại. Giáp đã cử một trinh sát tên là Hồng mới 12 tuổi đi do thám nắm tình hình. Mỗi ngày Hồng đem rượu vang và bánh mỳ cho viên chỉ huy Pháp, trò chuyện với binh lính, quan sát kho chứa lương thực và vũ khí, nhà ăn, nhà ngủ của binh lính, quan sát vị trí, ghi chép giờ ăn, giờ nghỉ hay hội họp của chúng. Ban đêm cậu bé luồn ra ngoài, chui qua các bụi tre để báo cáo tình hình với Võ Nguyên Giáp.

Muốn lọt vào đồn phải có giấy tờ hợp pháp. Võ Nguyên Giáp đến cơ quan báo Việt Nam Độc Lập kiếm giấy và đánh máy giấy thông hành. Một chiến sĩ sẽ làm con dấu giả bằng củ mài cộp vào giấy thông hành trên chữ ký giả mạo. Võ Nguyên Giáp nhớ lại: “Vào thời đó giấy giới thiệu đánh máy có giá trị nhất.”

Đồn địch có sĩ quan, hạ sĩ quan Pháp và binh lính người Việt. Để đánh lừa Pháp, đồng chí Văn (bí danh của Giáp) và đồng đội mặc quân phục giả làm người ở đồn trên xuống đem theo lính dõng. Văn đội nón chóp bọc vải chàm, chân quấn xà cạp và một thắt lưng trắng to bản. Trước hết, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân hạ đồn Phai Khắt rồi vượt qua nhiều cánh đồng trống tiến đánh luôn đồn Nà Ngần. Võ Nguyên Giáp kể lại người của ông, đơn vị của ông chiến đấu rất dày dạn và cực kỳ trung thành với cách mạng. Dù sao trong hai trận đánh đầu tiên đó có vẻ như việc chuẩn bị chưa được hoàn hảo. Những tên ngoan cố chống cự đều bị tiêu diệt ngay. Súng ống, đạn dược bị tịch thu được trang bị luôn cho đội viên quân giải phóng. Những lính người Việt trong đồn ra hàng, được giải thích chính sách cách mạng và thả ngay cho về bởi lúc đó quân cách mạng ít người lại lưu động luôn không có điều kiện giam giữ tù binh. Phải có nhân mối ở trong đồn từ trước, trận đánh mới có thể đem lại thắng lợi giòn giã như vậy.

Đây là cách tốt nhất để quần chúng biết đến hoạt động của đội giải phóng quân là như thế nào. Đánh thắng ngay trận đầu ra quân khiến quần chúng vô cùng phấn chấn. Võ Nguyên Giáp sung sướng reo lên: “Chúng ta là những người lính cách mạng vô địch: một ngày một bữa cơm nhạt, hai trận thắng!”

Để đánh lạc hướng, không bị địch theo dõi, Võ Nguyên Giáp dẫn quân tiến lên phía bắc, tung tin giả bộ đội Việt Minh sắp tấn công Đồng Mu là một xã biên giới, cách Cao Bằng 50 cây số về phía tây bắc. Đó là mưu kế đầu tiên mà sau này ông còn áp dụng để đánh lại người Pháp. Khi Võ Nguyên Giáp tính rằng Pháp đã suy ra mục tiêu tấn công sắp tới của quân giải phóng thì ông cho quân dừng lại ở tại căn cứ Thiện Thuật và nghỉ ăn Tết 1945 tại đây. Tin thắng trận lan đi rất nhanh. Khi đội quân của Võ Nguyên Giáp đi về phía Thiện Thuật thì đồng bào ở ngay những thôn bản gần đồn địch cũng đốt đuốc, giương cao hoan nghênh quân giải phóng. Một số đồng bào còn dọn sẵn cỗ ngày Tết hai bên đường để đón chào bộ đội đi qua.

Tại căn cứ Thiện Thuật, Võ Nguyên Giáp phát triển đơn vị đến cỡ đại đội và bổ sung thêm những người từ các nơi xa đến xin gia nhập quân giải phóng. Đồng bào tại đây còn ủng hộ trâu bò lợn gà, bánh trái để làm lương thực cho bộ đội. Bây giờ Võ Nguyên Giáp đã bắt đầu nghĩ đến việc huấn luyện quân đội. Các hang động ở Cao Bằng là nơi đặt tổng hành dinh đầu tiên. Tại đây Võ Nguyên Giáp và khoảng bốn 40 cán bộ Việt Minh và 500 tự vệ miền núi say sưa nghiên cứu cách thức xây dựng lực lượng vũ trang. Võ Nguyên Giáp suy nghĩ, viết huấn lệnh, dự thảo phương án và kế hoạch phát triển. Ngoài ra, ông còn tiếp tục tìm hiểu những tri thức về chiến lược, chiến thuật quân sự và các mặt công tác tuyển mộ tân binh, đào tạo, huấn luyện, hậu cần và thu nhận vật tư chiến tranh.

Ngay từ đầu Võ Nguyên Giáp hiểu rằng chỉ tổ chức đơn vị chủ lực thôi thì không đủ. Phải có hai thứ quân nữa làm lực lượng hỗ trợ và phối hợp hoạt động với nhau. Đó là lực lượng vũ trang ở huyện, ở tỉnh và lực lượng tự vệ ở xã. Lực lượng vũ trang cấp huyện tổ chức thành đại đội 85 người, ở tỉnh thành tiểu đoàn 300 người sẽ yểm trợ đội tuyên truyền giải phóng và sẽ tạo thành các đơn vị địa phương. Một khi được trang bị đầy đủ, những lực lượng này dụ quân Pháp vào những trận địa mai phục để quân chủ lực tiêu diệt. Lực lượng địa phương cũng có thể tiến hành phá hoại gây khiếp sợ cho địch, đánh quấy rối địch ăn không ngon, ngủ không yên tại các đồn tiền tiêu hoặc phải hao mòn lực lượng chia quân đi bảo vệ, làm nghi binh đánh lạc hướng để chủ lực đánh các trận lớn hơn.

Còn lực lượng tự vệ ở cấp xã tổ chức thành những trung đội 30 người lấy từ quần chúng giác ngộ ở cơ sở tạo nên cơ sở thật sự cho “chiến tranh toàn dân”. Hoạt động trong phạm vi thôn xóm, các đơn vị dân quân này dành một phần thời gian tổ chức các trạm canh gác trong xóm, đánh tiêu hao các đội tuần tra của địch, chuẩn bị các công trình phòng thủ địa phương như gài, chôn mìn, rải chông, đào hào giao thông, hố chiến đấu và các cạm bẫy gác để đánh địch khi chúng càn vào làng. Đó chính là lực lượng dự trữ, sẵn sàng bổ sung quân số cho lực lượng địa phương cấp huyện và tỉnh hoặc cho các đơn vị chủ lực được tổ chức, trang bị tốt và trình độ tác chiến cao hơn. Với thời gian, ngay cả một thanh niên mới gia nhập tự vệ ở thôn, xã hiểu rằng rồi đây anh ta có thể trở thành lính chủ lực tương tự như một nhà văn đã miêu tả: “kiến thợ nuôi kiến chiến”.

Phần lớn nguồn “dự trữ” đó ở mọi cấp tổ chức vũ trang của Võ Nguyên Giáp đều được học chính trị để nâng cao trình độ giác ngộ chính trị. Ngay từ đầu Võ Nguyên Giáp tin rằng người lính cần phải hy sinh tất cả cho sự nghiệp cách mạng. Chỉ như vậy họ mới chấp nhận chiến đấu và đủ quyết tâm hy sinh. Chỉ có sự trung thành đến cao độ mới tạo cho họ sức mạnh vượt qua những ngày chiến đấu gian khổ chống một kẻ thù mạnh hơn nhiều lần về trang bị kỹ thuật. Nếu chỉ có luyện tập quân sự đơn thuần thì không đủ để tạo nên cách ửng xử cao cả như thế. Vì vậy, Võ Nguyên Giáp dành hai phần ba thời gian huấn luyện bộ đội vào việc giáo dục chính trị.

Võ Nguyên Giáp phải nhanh chóng hạ bớt yêu cầu để phù hợp với khả năng tiếp thu của bộ đội. Lần đầu tiên khi ra lệnh cho bộ đội xếp hàng đi đều bước, ông đọc bằng tiếng Pháp un, deux, un, deux… Rất nhiều người nhìn ông tỏ vẻ ngạc nhiên không hiểu ông nói gì. Ngay lập tức ông nhận ra và hô lại bằng tiếng Việt: một, hai, một, hai. Bằng nhiều cách, Võ Nguyên Giáp huấn luyện quân đội theo một cách riêng, phù hợp với trình độ tiếp thu và yêu cầu của từng giai đoạn. Khi một người mới được đề bạt lên vị trí cao hơn, anh ta được dạy cho một vài động tác bổ sung hay những kiến thức thích hợp với trọng trách mới. Anh ta phải luyện tập cho đến khi ngấm vào người để có thể thực hiện một cách thuần thục.

Năm tháng trôi qua và cuộc chiến đấu chống Pháp vẫn tiếp tục. Những ai còn sống đều lên chức một cách gần như đều đặn vì những cán bộ hy sinh phải được thay thế hoặc bổ sung để chỉ huy các đơn vị mới thành lập. Sau một trận đánh, tất cả những người còn sống đều phải trải qua các lớp quân sự và chính trị, học tập đúc rút kinh nghiệm thành những bài học để nâng cao trình độ. Những người có triển vọng đều được đề bạt lên cấp bậc cao hơn, trách nhiệm nặng nề hơn và họ phải được luôn luôn hoàn thiện. Vì thế, ngay những người bình thường nhất cũng có thể trở thành những người lãnh đạo. Có những đại tá mới chỉ biết đọc, biết viết ít nhiều nhưng hiểu rõ hoàn toàn công việc được giao và biết đối phó với mọi tình huống trên chiến trường.

Võ Nguyên Giáp không cho phép có một sự yếu kém nào. Mỗi người phải thừa nhận khuyết điểm, thiếu sót của mình, phải tỏ thái độ hối cải và hứa hẹn làm tốt hơn. Những ai không làm như thế hoặc không thể làm được sẽ bị trừng phạt trả về đơn vị, đưa đi học các lớp cải tạo hoặc nếu không có cách nào khác có thể bị xử tử.

Võ Nguyên Giáp kết hợp hoạt động của ba thứ quân nói trên và một mình ông nắm quyền chỉ huy thống nhất. Trong một thời gian dài, Võ Nguyên Giáp quan tâm trước hết đến việc huấn luyện cụ thể cho bộ đội biết vận dụng chiến thuật xung phong trong một trận đánh, biết cách di chuyển qua mọi địa hình rồi dần dần chuyển sang học chiến lược, biết tiến hành chiến tranh kết hợp với mục đích chính trị như thế nào. Cần phải có thời gian để có thể nghiêm chỉnh tổng kết thực tiễn chiến đấu nâng lên thành lý luận, nhưng đó là công việc sẽ phải làm ngày này sang ngày khác và những lý luận đó sẽ có tiếng vang mạnh mẽ đối với tiến trình các cuộc chiến tranh hiện đại ở nhiều vùng trên thế giới.

Trong một thời gian, hoạt động của Việt Minh có vai trò tích cực, đóng góp cho nỗ lực trong chiến tranh của Đồng minh. Từ năm 1942, bằng nhiều con đường khác nhau, Việt Minh đã cung cấp những tin tức quý báu cho cơ quan tình báo Đồng minh, nhóm GBT hoạt động trong nội địa Đông Dương dưới ách chiếm đóng của Nhật. Ba chữ GBT là chữ đầu ghép lại mang tên những người lãnh đạo cơ quan tình báo đó là: Gordon, Bernard và Tan.

Laurence Gordon là một người gốc Canada hoạt động lâu năm trong ngành khai thác dầu lửa, đã từng ở Ai Cập, Trung Quốc và Madagascar. Khi chiến tranh nổ ra năm 1939, Laurence Gordon là đại diện cho hãng dầu Cal-Texaco của Mỹ ở Hải Phòng, đã rời khỏi Đông Dương trở về California. Trùm gián điệp của Anh là William Stephenson đã bắt mối với Gordon và tuyển dụng ông ta làm nhân viên, phong chức đại tá và cho trở lại Đông Dương hoạt động dưới cái vỏ là doanh nhân kinh doanh dầu lửa độc lập. Gordon móc nối với các cơ sở làm ăn của Cal-Texaco, đi lại giữa Hà Nội - Sài Gòn như cơm bữa. Chẳng bao lâu, ông ta móc nối được với Frank Tan, một người Trung Quốc mang quốc tịch Mỹ sinh ở bang Massachusetts, tốt nghiệp Trường Boston Latin School. Ngoài ra còn có Harry V. Bernard, một người Mỹ khác, trước đây cũng là nhân viên hãng dầu lửa Cal-Texaco ở Sài Gòn.

Nhóm bộ ba GBT tổ chức một mạng lưới đặc vụ quốc tế có cơ sở toàn Đông Dương, vừa thu lượm tin tức tình báo cho Chính phủ Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch, vừa cho phi đội Hổ bay thuộc Không đoàn 14 của tướng Mỹ Claire Chennault đóng căn cứ ở Côn Minh và không loại trừ với cả lực lượng 136 của Anh đóng ở Kandy thuộc Tích Lan (nay là Sri Lanka). Năm 1944, nhóm GBT gửi về Trung Quốc một bản báo cáo nói rằng có một trung úy phi công Mỹ tên là Shaw đã nhảy dù xuống miền núi rừng phía bắc do Việt Minh kiểm soát. Anh ta được một nhóm du kích của Võ Nguyên Giáp cứu thoát. Bản báo cáo nói rõ chính một người Việt Nam có tên là Hu Tze-ming [đúng ra là Hồ Chí Minh] đã ra lệnh cứu Shaw. Cuối cùng Shaw đã được đưa đến một đại bản doanh của Hồ Chí Minh ở Pắc Bó và trong một chuyến đi Trung Quốc cuối năm 1944, chính Hồ Chí Minh đã đưa Shaw sang Trung Quốc để giao cho lực lượng Mỹ(4).

Người phụ trách Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ (Office of Strategic Service – OSS) ở Côn Minh (Trung Quốc), nơi nhận được bản báo cáo của nhóm GBT, đã tỏ ra rất quan tâm đến các tin tức có liên quan đến các phi công Mỹ nhảy dù xuống miền bắc sau khi máy bay của họ bị lực lượng phòng không Nhật Bản bắn hạ. Văn phòng OSS có một tập hồ sơ nói về hoạt động từ những năm 1940 của các tổ chức cách mạng sau này là Việt Minh. Đó là lần đầu tiên trong tài liệu của Mỹ có nói đến tên Hồ Chí Minh. Ngày 31/12/1942, Clarence E. Gauss – Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc – báo cáo rằng người Trung Quốc đang giam giữ ở Liễu Châu trong tỉnh Quảng Tây từ ngày 2/12 “một người An Nam tên là Ho Chih-chi (?)”. Báo cáo của OSS cho biết trước đây người ta vẫn thỉnh thoảng gặp Hồ Chí Minh ở Côn Minh tại đại bản doanh của cơ quan tình báo chiến trường.

Nhân viên đầu tiên của OSS ở Côn Minh mà Hồ Chí Minh tiếp xúc là trung tá Paul L. E. Helliwell, giám đốc đặc vụ. Để tỏ lòng tôn trọng, Helliwell đã tặng Hồ Chí Minh sáu khẩu súng lục cỡ 38 và hai vạn viên đạn. Có ấn tượng rõ rệt về một người châu Á nhiệt tình sôi sục, Helliwell gửi một báo cáo lên cấp trên cho phép mình được tiếp xúc với Hồ Chí Minh nhiều hơn để tăng cường sự hợp tác, giúp đỡ.

Trong một lần đến Côn Minh ngày 17/3/1945, Hồ Chí Minh gặp Charles Fenn. Là phóng viên chiến tranh của Mỹ ở Trung Quốc, Fenn được OSS tuyển dụng và sau đó tham gia một lớp huấn luyện sĩ quan hải quân và nhận nhiệm vụ quay lại Trung Quốc, là trung úy biệt phái sang OSS. Ngoài ra, Fenn còn có nhiều nhiệm vụ khác trong đó có việc liên hệ với nhóm GBT ở Việt Nam. Trong một buổi trò chuyện với Hồ Chí Minh, Fenn hiểu rằng trước mắt mình là một người cần được hợp tác để làm việc góp phần vào nỗ lực chiến tranh. Vì vậy, khi Hồ Chí Minh hỏi có thể gặp tướng Claire Chennault không, Fenn nhận lời ngay. Bất kể là chuyện đó tốt hay xấu, Fenn chính là người đã “giới thiệu” ông Hồ Chí Minh với OSS. Ngày 29/3/1945 Hồ Chí Minh và tướng Chennault – Tư lệnh không đoàn 14 – gặp nhau.

Chennault cảm ơn Hồ Chí Minh đã cứu thoát trung úy phi công Shaw. Hồ Chí Minh trả lời ông rất sung sướng được giúp đỡ người Mỹ và đặc biệt là tướng Chennault mà ông tỏ lòng rất kính phục. Trong chốc lát hai người nói đến Phi đội Hổ bay dưới quyền tướng Chennault được thành lập với những tình nguyện viên người Mỹ từ đầu chiến tranh để hỗ trợ chính phủ Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch nhằm đánh bại ưu thế không lực của Nhật. Chennault rất hài lòng thấy một “ông già” An Nam (Hồ Chí Minh lúc đó 54 tuổi) biết đến phi đội máy bay đó. Không ai trong những người có mặt trong buổi trò chuyện đó đả động đến người Pháp, cũng không ai nói đến chính trị. Rồi Hồ Chí Minh hỏi: “Ngài có cái ảnh chân dung nào trong túi không?”. Chennault lấy ra trong túi áo sơ mi ảnh chân dung in trên giấy bóng. Hồ Chí Minh chọn một chiếc và yêu cầu tướng Chennault ghi lời đề tặng. Chennault ghi bằng dòng chữ rất khó đọc: “Thân ái. Claire L. Chennault”. Hồ Chí Minh cầm lấy ảnh và từ biệt.

Hồ Chí Minh rất hài lòng, ông có trong tay một kho vàng: chứng cớ xác thực và có thể đưa ra để chứng tỏ cho bất cứ ai nghi ngờ về việc được Mỹ ủng hộ. Chẳng bao lâu Hồ Chí Minh sẽ nhận được sự giúp đỡ cụ thể.

Tướng Pháp Eugène Mordant chỉ huy lực lượng Pháp ở Đông Dương từ năm 1940. Năm 1942 ông bỏ sang hàng ngũ người Pháp tự do của tướng De Gaulle nhưng vẫn được giao nhiệm vụ ở lại Đông Dương để chỉ huy quân Pháp ở đây và chuẩn bị đón quân Đồng minh đổ bộ. Mordant không phải là con người kín đáo, nên chẳng bao lâu người Nhật đã phát hiện ra và nắm được kế hoạch của ông. Họ kiểm soát chặt chẽ những hoạt động của ông. Tháng 8/1944, De Gaulle bổ nhiệm Mordant làm Tổng đại diện ở Đông Dương và Toàn quyền Decoux thấy rõ mình bị tước bỏ mọi quyền hành thực tế.

Người Nhật tổ chức lại lực lượng thống trị để bám giữ pháo đài của mình ở Đông Dương. Họ thay quân đồn trú ở các trại lính Nhật có mặt khắp nơi bằng những lực lượng ưu tú của quân đoàn 38 quân đội Hoàng gia do trung tướng Yuitsu Tsuchihashi chỉ huy. Từ tháng 12/1944 Yuitsu đã yêu cầu được phép hành động chống lại Mordant và các lực lượng Pháp ở Việt Nam. Cấp trên trả lời chưa đến lúc phải hành động.

Trong tháng 1 và tháng 2/1945, Mordant ra lệnh cho quân Pháp rời khỏi doanh trại và điều động họ lên vùng rừng núi phía bắc Bắc Kỳ. Ông cho rằng, trong trường hợp Nhật tấn công, quân Pháp sẽ không mắc bẫy, ở miền núi có thể tổ chức du kích đánh Nhật. Thêm nữa, Mordant còn làm người Nhật tức giận vì không chịu giao cho Nhật chín phi công Mỹ bị bắn rơi và có lẽ đang trong tay người Pháp. Mordant cũng trù tính một cuộc hành quân chống lại du kích Việt Minh bắt đầu từ ngày 10/3.

Người Nhật không chờ được nữa. Ngày 9/3 quân Nhật tước bỏ mọi quyền hành của Pháp, bắt giam các quan chức dân sự và quân sự của Pháp trong đó có cả tướng Mordant. Những người có cảm tình với De Gaulle đều bị lùng bắt và thẩm vấn. Nhiều sĩ quan và đơn vị quân đội bị tước vũ khí. Thật là trớ trêu của lịch sử, Pháp bị cầm tù tại chính thuộc địa của họ. Khoảng 12.000 quân Pháp đang hành quân dã chiến ở vùng rừng núi phía bắc cố gắng kháng cự gần Lạng Sơn và Đồng Đăng không xa biên giới Trung Quốc. Thừa quân nhưng thiếu đạn, cuối cùng hàng trăm quân Pháp đầu hàng và bị quân Nhật tàn sát hàng loạt. Những người sống sót liều lĩnh rút lui lên phía bắc và vượt biên chạy sang lãnh thổ Trung Quốc để thoát thân. Cuộc đảo chính ngắn ngủi này đã đảo lộn tình hình ở Việt Nam. Đế quốc Pháp già cỗi ở tuổi 80 chỉ một đêm là sụp đổ hoàn toàn, đồng thời cũng mãi mãi bị chôn vùi ý tưởng cho tới hôm đó vẫn còn bám sâu trong tâm trí người Việt cho rằng sức mạnh toàn năng của nước Pháp không bao giờ có thể bị đánh bại.

Không bỏ lỡ một cơ hội quá sức mong đợi, Vua Bảo Đại hành động nhanh chóng. Ngày 11/3/1945 hai ngày sau đảo chính, và cũng theo gợi ý của người Nhật, Bảo Đại tuyên bố bãi bỏ Hiệp ước bảo hộ năm 1884, tuyên bố Vương quốc An Nam từ nay hoàn toàn độc lập. Trong nhiều năm qua, Nhật Bản đã ra sức tuyên truyền về khối thịnh vượng chung Đại Đông Á dưới sự bảo trợ của Nhật Bản, với khẩu hiệu: “Châu Á là của người châu Á”. Nhưng việc người Nhật khăng khăng từ chối trao trả cho Bảo Đại nền độc lập hoàn toàn của Việt Nam chỉ làm cho thanh thế của Việt Minh thêm mạnh từ sau cuộc đảo chính và ngày càng phát triển nhanh chóng.

Tuy nhiên, thái độ của Bảo Đại là một bất ngờ đối với Hồ Chí Minh và Việt Minh vì họ muốn ở Việt Nam không còn lực lượng nào khác ngoài Việt Minh có thể tập hợp được những người yêu nước. Họ ấp ủ một kế hoạch để thương lượng với Bảo Đại khi có thời cơ thích hợp.

Ủy ban Quân sự của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản quyết định triệu tập một hội nghị quân sự ở Bắc Giang từ ngày 15 đến 20/4/1945. Võ Nguyên Giáp rất nóng lòng mong đến cuộc họp. Đó sẽ là một dịp gặp lại đồng chí trao đổi tin tức, hoàn chỉnh các kế hoạch quân sự. Ông đi bộ đến Bắc Giang, mặc quần áo cổ truyền: áo the đen, quần trắng, nón chóp. Lần đầu tiên trong 5 năm qua ông mới lại có dịp trở về xuôi, về phía đồng bằng sông Hồng.

Quang cảnh ruộng đồng ngập nước hiện ra trước mắt ngày càng nhiều khiến ông thích thú. Mỗi lần qua một thôn xóm, thấy những rặng tre ken dày đặc, Võ Nguyên Giáp càng thấy phấn chấn. Đồng ruộng và lũy tre làm ông nhớ về làng quê trong những ngày yên vui, hòa bình. Ông tự hỏi người vợ yêu quý Quang Thái và con gái Hồng Anh bây giờ ra sao? Ông viết: “Lúc đó mong muốn sẽ nhận được tin tức về gia đình tôi mà suốt mấy năm qua không hề có tin tức. Tôi đã gửi nhiều thư nhưng không biết thư có đến nơi không? Và tôi tưởng tượng ra sẽ sớm nhận được tin tức của gia đình”.

Tại Bắc Giang, Võ Nguyên Giáp gặp lại người bạn cũ là Trường Chinh. “Khi tôi gặp lại Trường Chinh cùng các đồng chí khác, một niềm vui khôn xiết tràn ngập trong lòng. Tuy nhiên, những ngày cực kỳ cam go đang chờ chúng tôi”. Trong lúc Võ Nguyên Giáp lắng nghe các đồng chí khác kể lại họ đã phải đối phó với các đợt khủng bố gắt gao của địch như thế nào để có thể di chuyển không ngừng từ điểm này sang điểm khác thì Trường Chinh vô tình quay đầu, gợi lại những chuyện của vợ ông như để chứng minh những ngày nguy hiểm đã qua:

-Thái bị bắt mà không kịp tìm được ai để gửi bé Hồng Anh. Thái đã hy sinh trong tù trước khi người ta có thể làm được gì…

Nghe xong, Võ Nguyên Giáp lạnh toát người, sững sờ trong giây lát, tim đập tưởng như muốn vỡ ra, cuối cùng ông hỏi:

-Thế nào, anh nói là Thái đã hy sinh?

Trường Chinh hỏi lại:

-Sao? Thế anh chưa biết ư?

Trường Chinh không ngờ Võ Nguyên Giáp không nhận được tin tức gì về gia đình suốt mấy năm qua, ông cũng rút vào bí mật từ khi hai người rời khỏi Hà Nội.

Võ Nguyên Giáp lặng đi, không nói không rằng. Ông lặng lẽ đứng dậy đi ra một góc, tìm một giây phút yên tĩnh để có thể tạm nguôi đi nỗi đau xé lòng. Nhưng không phải lúc để ngậm ngùi với nỗi đau. Ông nhớ lại: “Đó là lúc phải lập kế hoạch hoạt động quân sự trong thời gian trước mắt. Thời cơ khởi nghĩa đã đến gần”. Võ Nguyên Giáp lấy lại bình tĩnh, trở lại cuộc họp để bàn công việc.

Từ bây giờ người Nhật đã kiểm soát tình hình ở Việt Nam, nhưng họ không có một cơ cấu nào đủ sức thay thế lực lượng an ninh và tình báo của người Pháp đã bị phá vỡ. Họ chỉ đủ khả năng kiểm soát các thành phố và các đường giao thông của Việt Nam. Nhật không kiểm soát được các vùng nông thôn nên đã rơi vào tay Việt Minh. Nhanh chóng lợi dụng tình hình này Việt Minh mở rộng hàng ngũ, tuyển tân binh, làm công tác tổ chức chính trị và quân sự. Nhiều đơn vị Việt Minh mới thành lập tiếp tục phong trào Nam tiến. Võ Nguyên Giáp lần lượt thành lập khoảng 15 đến 20 đơn vị trong đội giải phóng quân.

Tại một nơi tuyển quân có tới 3.000 thanh niên ghi tên đầu quân. Những người yêu nước treo cao cờ đỏ sao vàng ngày càng nhiều trong các xóm làng. Những người táo bạo nhất còn tước vũ khí lính Pháp khi chúng rút chạy. Trên thực tế, các ủy ban cách mạng của Việt Minh đã đóng vai trò của chính phủ lâm thời trong vùng mình kiểm soát và người Nhật không đủ quân số để thay thế quân đồn trú ở các thành phố hay phái về các vùng nông thôn rừng núi để đàn áp phong trào cách mạng.

Từ ngày 15 đến ngày 20/4/1945, Trường Chinh chủ trì hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, có đông đủ đại biểu các tổ chức vũ trang đến từ khắp nơi trong nước, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang và đặt dưới sự chỉ huy duy nhất. Đầu tháng 5/1945 Việt Minh đã làm chủ một vùng giải phóng gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Phúc Yên và một phần tỉnh Bắc Giang và Vĩnh Yên. Ngày 15/5/1945, Giải phóng quân chính thức tuyên bố thành lập(5) trong một cuộc họp tại đình Định Biên Thượng huyện Chợ Chu tỉnh Thái Nguyên. Tin Giải phóng quân ra đời truyền đi như vết dầu loang trên mặt nước, khắp các miền ở Bắc Kỳ từ Hà Nội đến Cao Bằng từ nay được coi như khu giải phóng. Do đó, ngày 4/6, trong một cuộc mít tinh tại Kim Long đã được đổi tên thành xã Tân Trào, Việt Minh đã tuyên bố đây là vùng giải phóng. Tân Trào sẽ trở thành thủ đô của khu giải phóng và việc cai quản trong khu sẽ đặt dưới trách nhiệm của một ủy ban chấp hành lâm thời gồm 5 người. Trong cuộc mít tinh ấy, Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm thành viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.

Ban lãnh đạo Việt Minh nhận định quân Nhật đầu hàng Đồng minh sẽ mở ra thời cơ mới cho cách mạng Việt Nam. Ngày 4/7/1945 Võ Nguyên Giáp phái một đơn vị du kích tấn công trại Nhật trên khu nghỉ mát Tam Đảo ở độ cao 1.200 m, phía tây bắc đồng bằng sông Hồng. Quân Nhật còn giam giữ một số thường dân Pháp ở đây. Đội du kích Việt Minh nhanh chóng hạ đồn Tam Đảo, phá trại tập trung và giải phóng các thường dân Pháp bị giam giữ tại đây.

Cuộc đảo chính của Nhật ngày 9/3/1945, lật đổ chính quyền Pháp ở Đông Dương làm ngưng trệ việc cung cấp tin tức tình báo của Việt Minh cho nhóm OSS ở Côn Minh, Trung Quốc. Người của OSS tìm mọi cách liên lạc với Hồ Chí Minh để chỉnh lý các phương tiện thu thập tin tức tình báo. Frankie Tan, người của GBT lúc đó đang ở Côn Minh, giục giã Hồ Chí Minh thỏa thuận với OSS một việc mà Hồ Chí Minh cũng đang trù tính, xin phép Hồ Chí Minh cho một đơn vị của OSS đến khu giải phóng của Việt Minh để cộng tác với cán bộ của ông trong việc tập hợp tin tức về người Nhật, khôi phục và phát triển các mạng lưới tình báo hiện đang tháo chạy tán loạn do các cuộc truy đuổi của người Nhật. Ngày 30/6 thiếu tá Archimedes Patti của OSS nhận được sự đồng ý của Hồ Chí Minh nói rằng ông sẽ tiếp nhận một đơn vị của OSS và sẽ thu thập tin tức về hoạt động của quân Nhật ở Đông Dương. Ít lâu sau Charles Fenn tổ chức một chuyến bay đưa Hồ Chí Minh và Frankie Tan từ Côn Minh đến một thành phố miền Nam Trung Quốc gần biên giới rồi từ đó Tan và Hồ Chí Minh được một lực lượng tự vệ bảo vệ và dẫn họ về Pắc Pó, rồi trở về Tân Trào.

Tuy nhiên, đơn vị OSS của Patti không phải là đội đầu tiên đến trại huấn luyện của Hồ Chí Minh trong rừng rậm miền Bắc Việt Nam. Trước đó, một người Mỹ đã có mặt trong trại quân của Việt Minh tại khu giải phóng Việt Bắc. Đó là trung úy Dan Phelan – sĩ quan của đơn vị không trợ mặt đất (AGAS) thuộc Không đoàn 14 dưới quyền chỉ huy của tướng Chennault. Frankie Tan đến gặp Phelan và giới thiệu Phelan với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp. Phelan kể lại: “Hồ Chí Minh luôn luôn hỏi tôi có nhớ lời bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 không? Tôi trả lời: không. Tôi chỉ là một người Mỹ bình thường. Tôi không nhớ, nhưng tôi có thể điện về Côn Minh để họ gửi cho tôi một bản. Nhưng tất nhiên đó chỉ là câu chuyện xã giao. Càng nói chuyện tôi càng thấy rõ Hồ Chí Minh hiểu Tuyên ngôn độc lập năm 1776 hơn tôi nhiều.”

Đến ngày 16/7 đơn vị của Patti mang mật danh đội Con Nai mới nhảy dù xuống gần một làng không xa Kim Long cách Tuyên Quang 32 km. Toán đầu tiên do thiếu tá Allison Kent Thomas chỉ huy nhảy trước. Từ tháng 5, Thomas đã có ý định vượt biên giới đường bộ để xâm nhập khu vực Việt Minh nhưng không thành công vì không tìm thấy người dẫn đường. Bây giờ anh ta cùng với hai đồng đội nữa, binh nhất Henry Prunier, phiên dịch và thượng sĩ William Zielski, phụ trách điện đài, nhảy dù xuống vùng rừng rậm bên dưới họ.

1. Hoàng Sâm (1915 - 1968), tên thật là Trần Văn Kỳ, người làng Lệ Sơn, Tuyên Hóa, Quảng Bình (BT).
2. Xích Thắng (1915 - 1979), tên thật là Dương Mạc Thạch, quê ở Gia Bằng nay là xã Minh Tâm, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (BT).
3. Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập tại khu rừng Trần Hưng Đạo, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (BT).
4. Trên đường đi Côn Minh, tên tư lệnh cảnh sát biên phòng của Tưởng Giới Thạch là Trần Bảo Xương đã yêu cầu Hồ Chí Minh giao Shaw cho hắn để đưa về Côn Minh (xem thêm Hồi ký Phùng Thế Tài: Người đầu tiên bảo vệ Bác, Nxb. Quân đội nhân dân, 2001) (ND).
5. Ngày 15/5/1945, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sáp nhập với lực lượng Cứu quốc quân và đổi tên thành Giải phóng quân (BT).

<<Chương 5 “Mỗi người dân là một người lính” Chương 7 “Hoan nghênh các bạn người Mỹ” >>

Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Cờ lau dựng nước

Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt