Chiến thắng bằng mọi giá
Chương 11 “Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc”
PHẦN BA
Điện Biên Phủ 1946 - 1954
Chương 11 “Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc”
Năm 1948, Việt Minh giữ được an toàn bên trong một vùng rừng núi cây cối um tùm, đồi núi nhấp nhô, sông suối nhiều ghềnh thác, rộng 150 cây số ở phần cực bắc của đất nước. Những nhóm nhỏ được trang bị vũ khí đột xuất tiến về đồng bằng sông Hồng tấn công vào các đồn Pháp, trong khi đó cán bộ từ các khu an toàn ở Việt Bắc vừa tuyên truyền vừa thẳng tay trừng trị bọn bán nước, tạo nên một sức ép thường xuyên trong các vùng do Pháp chiếm đóng.
An toàn trong “nhà kính” được bảo vệ, Võ Nguyên Giáp dùng thời gian này để suy nghĩ, xây dựng các kế hoạch. Ông không ngừng khổ công học tập trên thực tế chiến trường và ông thấy đó là trường học khốc liệt nhất. Khác với nhiều tướng lĩnh khác, ông tận dụng những kinh nghiệm của mình, phân tích, lý giải để rút ra những bài học đích đáng và vận dụng vào tình hình mới. Như sau này ông nói: “Trong chiến tranh, thắng được một trận mà học tập được nhiều còn hơn thắng nhiều trận mà chẳng rút ra được bài học gì”.
Ông ý thức được mình đã học được nhiều điều nhưng không bao giờ được say sưa trên vòng nguyệt quế. Ông dành phần lớn thời gian của năm 1948 để suy nghĩ và lên kế hoạch về trận đánh sắp tới. Ông chấp nhận lý luận của Mao Trạch Đông về chiến tranh ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và tổng phản công. Ông biết rõ bộ đội của mình chưa thể thắng trong chiến tranh trận địa với quân Pháp. Ông cũng biết rõ kẻ địch không có khả năng đánh bật ông khỏi Việt Bắc hoặc tiêu diệt lực lượng của ông ở đó.
Đó là thành trì bất khả xâm phạm. Quyền chủ động nay đã thuộc về ông cũng như về Đảng vì sau khi các phần tử “đối lập” đội lốt quốc gia bị tan rã, thì Việt Minh trở thành điểm duy nhất tập hợp những người yêu nước trong cuộc đấu tranh chống Pháp. Ông đã sẵn sàng và chiến lược, chiến thuật của ông gây hoang mang cho các tướng lĩnh, các bộ tham mưu Pháp, Mỹ và cuối cùng với chính quyền ngụy Việt Nam. Quân của Võ Nguyên Giáp thường kém về quân số cũng như về trang bị vũ khí. Tuy ông cũng chịu nhiều trận thua, nhưng ông chưa thất bại trong cuộc chiến tranh nào. Võ Nguyên Giáp và Việt Minh không cần thắng nhiều trận để giành toàn thắng trong chiến tranh. Họ chỉ làm cho người Pháp phải rời khỏi đất nước họ. Sau này với người Mỹ cũng thế. Mục tiêu của chiến tranh chống lại người Pháp là giành độc lập và thống nhất đất nước. Còn trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai chống người Mỹ, Bộ Chính trị đề ra ba mục đích: 1/ Lật đổ chính quyền Sài Gòn và thay vào đó bằng một chính quyền cộng sản duy nhất. 2/ Thống nhất hai miền Việt Nam. 3/ Buộc người Mỹ phải rút về nước – điều mà Võ Nguyên Giáp có thể đạt được mà không cần một chiến thắng quân sự đối với người Mỹ.
Làm thế nào một thầy giáo sử học thấp bé ở trường trung học, một cựu nhà báo lại trở nên một vị tướng có nhiều chiến công hiển hách có thể sánh ngang với những vị tướng lĩnh giỏi nhất trong lịch sử nhân loại? Không một người phương Tây nào có thể biết một cách chính xác đâu là tầm cỡ hành trang lý luận quân sự của ông, một lĩnh vực mà mỗi khi có ai hỏi đến ông đều thoái thác, không muốn trả lời rõ ràng. Một số người cho rằng ông đã được đào tạo quân sự theo trường phái quân sự Liên Xô, hoặc đã theo học quân sự tại Viện Quân sự Hoàng Phố của Quốc dân Đảng Trung Hoa. Người khác lại cho ông là đệ tử của nhữngngười cộng sản Trung Hoa. Tất cả những giả thuyết trên đều không có gì làm bằng chứng. Trái lại là khác… Câu trả lời duy nhất của ông được nhắc lại trong nhiều dịp: “Trường quân sự duy nhất tôi đã học là chiến tranh du kích”. Ông đã học trong thực tế chiến trường. Khó khăn duy nhất của chiến tranh du kích, nếu nói là một học viện quân sự, thì cái thiếu duy nhất đó là một thư viện. Clausewitz đã nói nếu muốn tự học về quân sự thì chỉ có hai con đường: kinh nghiệm của bản thân và lịch sử chiến tranh. Nói về kinh nghiệm thì Võ Nguyên Giáp có một kho tàng tầm cỡ.
Bất đồ, người ta đặt câu hỏi Julius Caesar đã học trường quân sự nào? Timur hay, Alexander cũng vậy! Học hỏi ở học viện quân sự nào mà Hannibal lại tìm cách vượt dãy núi Alpes? George Washington đã theo học quân sự ở đâu? T. E. Lawrence(1) có phải đã nhận bằng quân sự từ Sandhurst? Cũng như Võ Nguyên Giáp, các danh nhân đó đều tự học, tự nghiên cứu lịch sử quân sự, chiến lược, chiến thuật. Họ đã vận dụng những điều học được trong những hoàn cảnh cụ thể để có thể rút ra bài học từ những sai lầm. Tiếp đó họ chứng minh được điểm ưu việt trong chiến lược của mình với đối phương. Đó là cách làm của Võ Nguyên Giáp với Leclerc, Valluy, Blaizot, Navarre và Westmoreland.
Võ Nguyên Giáp đã đọc tác phẩm từ những tác gia lớn. Ông đã học hỏi kinh nghiệm ngay từ những vị anh hùng dân tộc của đất nước ông. Trường học thật sự của ông là chiến tranh du kích, ở đó học tức là sống, để lại tiếp tục đánh du kích, là thất bại và chết, đối với bản thân ông cũng như đối với Việt Minh. Ông phải học, phải tiến lên phía trước, ông không bị ngăn cản vì cái ý thích ngông cuồng thường thấy ở phương Tây là luôn luôn cố gắng làm lại cuộc chiến tranh đã qua. Học viện quân sự của ông là trường học chiến đấu, nơi đào tạo những chỉ huy quân sự có thực tài.
Từ những bút tích của ông, vừa rải rác, vừa thiếu hệ thống, chúng ta có nhiều thông tin cho thấy ông chịu ảnh hưởng của ai trong việc hình thành nên chiến lược, chiến thuật của mình. Không rụt rè, ông thẳng thắn tuyên bố ông tham gia chống Pháp và sau đó là chống Mỹ để giành độc lập, tự do, bảo vệ giá trị văn hóa dân tộc và đạo đức, để làm cho mọi người có cuộc sống thịnh vượng, hạnh phúc, đồng thời để truyền bá lý tưởng cách mạng với các dân tộc bị áp bức trên hành tinh.
Võ Nguyên Giáp tự hào về dân tộc Việt Nam, từ xa xưa đã kiên cường trong cuộc đấu tranh chống ách đô hộ và sự xâm lăng của Trung Quốc. Ông cho rằng các cuộc đấu tranh nổi dậy và chiến tranh dân tộc ấy đã hình thành nên truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm vừa vẻ vang, vừa mãnh liệt của dân tộc. Ông cũng vô cùng tự hào về các anh hùng dân tộc, những người đã lãnh đạo nhân dân suốt nhiều thế kỉ chống lại Trung Quốc và Mông Cổ. Trong tác phẩm Chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân, Giáp viết: “Đường lối quân sự của Đảng đã kế thừa, phát triển lên một trình độ cao chưa từng có, những nguyên tắc chiến lược của tổ tiên và của nền văn hóa dân tộc…”
Điều đơn giản đầu tiên có lẽ là Võ Nguyên Giáp đã được truyền cảm hứng yêu nước từ chính lịch sử đất nước mình. Hãy kể ra trước hết là Hai Bà Trưng – Trưng Trắc và Trưng Nhị – đầu thế kỷ thứ nhất đã nổi dậy đập tan các thành trì của Thái thú Trung Quốc. Đó là Lý Bí hay Lý Bôn, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ Trung Quốc ở thế kỷ VI, đồng thời tiến hành chiến tranh chống vua Lâm Ấp ở phía Nam. Năm 542, ông lật đổ chính quyền đô hộ mất lòng dân và năm 544 thành lập nhà nước độc lập đặt tên là Vạn Xuân, tự xưng là Lý Nam Đế.
Đó là Khúc Thừa Dụ bước đầu xây dựng nền móng cho nhà nước tự chủ, sau đó là Ngô Quyền phục hồi nền độc lập vào năm 939, sau khi đánh đuổi quân Nam Hán với trận Bạch Đằng nổi tiếng năm 938.
Nhiều thế kỷ sau đó là anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn, hay còn gọi là Trần Hưng Đạo. Năm 1283, ông được vua Trần phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh các lực lượng quân sự đánh lui cuộc xâm lăng của quân Nguyên Mông. Ông là người mở đầu cuộc chiến tranh du kích và chiến thuật vườn không nhà trống để đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước. Năm 1287, lại một lần nữa ông lãnh đạo toàn quân, toàn dân đánh bại quân xâm lược Nguyên Mông. Đối với Võ Nguyên Giáp, Trần Hưng Đạo thật sự là một nhà chiến lược quân sự tài ba. Ông dùng chiến tranh du kích để quấy rối quân địch mạnh hơn mình và ông đặc biệt quan trọng khối đoàn kết dân tộc bằng cách tập hợp toàn thể dân chúng dưới một ngọn cờ do ông lãnh đạo.
Nhưng có lẽ theo Võ Nguyên Giáp, người anh hùng vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam là Lê Lợi. Năm 1418 Lê Lợi đã phát động cuộc khởi nghĩa chống quân Minh (Trung Quốc) xâm lược. Võ Nguyên Giáp khẳng định ông đã học được ở Lê Lợi khái niệm “chiến tranh lâu dài”, ông viết: “Đó là thiên tài của dân tộc ta đã làm nên truyền thống đẩy mạnh kháng chiến và biết đánh bại quân địch trong chiến tranh lâu dài”. Rồi còn có Nguyễn Huệ, còn gọi là Quang Trung, năm 1771 cùng với hai anh trai của mình đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tây Sơn thắng lợi. Võ Nguyên Giáp coi Nguyễn Huệ là người chứng minh cho sức mạnh của quần chúng vì ông đã dựa vào những người nông dân chân đất áo vải để đánh đổ các tập đoàn phong kiến phản động, đánh tan hai cuộc xâm lược của phong kiến Trung Quốc và Xiêm La, bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.
Tất cả những vị anh hùng đó, tất cả những cuộc xung đột đó đều được xếp vào loại chiến tranh chính nghĩa như cuộc chiến tranh hiện nay Võ Nguyên Giáp đang tiến hành. Những con người vĩ đại và những cuộc đấu tranh nổi tiếng đó chứng tỏ rằng đại nghĩa thắng hung tàn, chí nhân thắng cường bạo, rằng ít có thể thắng nhiều, nhỏ có thể thắng lớn và yếu có thể thắng mạnh.
Rồi theo Võ Nguyên Giáp, có một số nước tư bản chủ nghĩa, diện tích không lớn, dân không đông nhưng trái lại có nền công nghiệp phát triển vẫn có thể, thông qua các cuộc chiến tranh thuộc địa, chinh phục tất cả những miền đất chậm phát triển của thế giới. Cuộc đấu tranh của các dân tộc khác nhau bước vào một giai đoạn đen tối và vô vọng. Vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc xuất hiện ở khắp nơi và dường như không giải quyết được.
Chiến tranh có thể là một phương tiện để đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp không? “Đó là một vấn đề mới nổi lên”, Võ Nguyên Giáp thú nhận. Ông suy nghĩ vấn đề đó từ tháng này qua tháng khác để tìm ra giải pháp. Ông rút ra được bài học từ các vị anh hùng dân tộc trong quá khứ, đó là sự cần thiết phải huy động nhân dân để đánh thắng kẻ xâm lược. Mục tiêu tương tự không thể đạt tới nếu bộ đội không biết đến nhân dân, đối xử tệ với nhân dân. Và ông tiếp tục xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa bộ đội và nhân dân, để tranh thủ sự tin yêu của nhân dân, thực hiện quân dân nhất trí.
Ông viết: “Đảng ta giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc để thúc đẩy cách mạng Việt Nam tiến lên”. Muốn làm thế, Đảng động viên toàn thể nhân dân cả nước đứng lên đánh đuổi những ai giày xéo Tổ quốc, cuộc chiến đấu trở thành cuộc cách mạng dân tộc do nhân dân lãnh đạo, vì lợi ích của nhân dân. Đảng cùng với Võ Nguyên Giáp hứa rằng kết cục của cuộc xung đột Pháp - Việt sẽ chấm dứt ách đô hộ của thực dân Pháp, xóa bỏ mọi hình thức thống trị và bóc lột giai cấp, giải phóng thợ thuyền và dân cày, đi tới công bằng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Võ Nguyên Giáp nhận thấy rất rõ tinh thần yêu nước chính là tài sản vô giá mà các bậc tiền bối truyền lại cho người đang sống. Đảng đã gắn chủ nghĩa yêu nước với lòng yêu chủ nghĩa xã hội và chế độ xã hội mới để chỉ cho nhân dân thấy cách duy nhất để giải phóng dân tộc thành công là lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Võ Nguyên Giáp và Đảng càng gắn chương trình hành động của họ với sự nghiệp của quần chúng thì họ càng mạnh. Theo cách đó, cả dân tộc nổi dậy để giành lại và bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc. “Vì vậy, cương lĩnh chính trị của chúng tôi, khác với các cuộc khởi nghĩa trong lịch sử và cuộc chiến tranh dân tộc trong lịch sử, đã dành một phần quan trọng cho các vấn đề về điều kiện sống và có nội dung xã hội”.
Đối với Võ Nguyên Giáp, nhân dân là nguồn gốc của sức mạnh, từ đó sinh ra ý chí chiến đấu và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Phải thấu hiểu nhu cầu, nguyện vọng của quần chúng, vì vậy trong căn cứ địa Việt Bắc và các vùng mới giải phóng, Đảng từng bước thực hiện chính sách nông thôn, tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày. Giấc mơ “người cày có ruộng” từ nhiều đời nay lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc trở thành hiện thực. Võ Nguyên Giáp nói thêm: “Người ta vĩnh biệt nạn đói, cho hàng triệu người thoát nạn mù chữ. Sản xuất tăng nhanh như tên bắn, đời sống nhân dân được cải thiện. Quân đội ngày càng vững chắc. Trên chiến trường quân đội ngày càng tỏ ra là một đội quân chính quy nhà nghề. Càng đánh càng mạnh. Tóm lại, dân chúng yêu mến chế độ, dũng cảm đấu tranh và hy sinh hết thảy để bảo vệ chế độ”.
Cả người Pháp và sau là người Mỹ không làm chủ được tham số căn bản như Võ Nguyên Giáp. Trên chiến trường, chiến thắng sẽ nghiêng về phía bên nào tranh thủ được nhân dân. Những lực lượng nước ngoài nào có làm công tác dân vận thì cũng chỉ qua loa đại khái cốt để thực hiện mệnh lệnh trên giao. Còn bộ đội của Võ Nguyên Giáp thì ở với dân chúng suốt đời. Đối với bộ đội của ông không thể nói là hoàn thành nhiệm vụ khi chưa biết được công tác tranh thủ quần chúng đạt được đến đâu. Người ta biết có nhiều lập luận được đem ra trao đổi rất sôi nổi trong nội bộ các bộ tham mưu của Mỹ để thấy rõ hậu quả tiêu cực của những hành động sách nhiễu nhân dân và cố ngăn cản các trận pháo kích vào các căn cứ Mỹ ở miền Nam. Người ta có tin rằng điều đó có làm thay đổi được chút nào không? Những cố gắng “bình định” được gọi chính thức bằng những cái tên như cuộc hành binh phòng thủ và phát triển bên trong “an ninh nội bộ”, “phục hồi dân tộc”, và “phát triển căn bản”, “vô hiệu hóa”, “tái thiết nông thôn”, “ổn định hóa” đều được xác định là “một cuộc chiến tranh khác” hay đại loại như thế. Đó chỉ là những hoạt động hỗ trợ phải thực hiện khi còn thì giờ, một khi mục tiêu chính đạt được là đánh bật quân địch, kìm chân và tiêu diệt chúng. Và người ta sử dụng như một sức mạnh đột kích tăng lên không ngừng. Có thể là những nhà chiến lược đó tưởng rằng chỉ cần có quân số áp đảo là giải quyết được mọi vấn đề quân sự và như thế là coi nhẹ ngạn ngữ trong Thánh ca (20,7-8): “Một số tin ở chiến xa, một số tin ở ngựa, nhưng tất cả đều suy sụp và ngã xuống”.
Khi Võ Nguyên Giáp dạy cho quân sĩ của ông một điểm quan trọng trong học thuyết quân sự là quân và dân phải đoàn kết một lòng, thì các quân đội nước ngoài lại chỉ coi trọng sức mạnh quân đội và vũ khí. Vì vậy, họ đối xử tàn tệ với dân thường, không biết rằng nếu đối xử khác thì dân thường có thể ủng hộ họ. Chính vì vậy, nước Pháp và nước Mỹ đã gạt đi một đồng minh tiềm tàng là đông đảo thường dân, bởi lẽ không phải tất cả dân chúng đều một lòng ủng hộ cộng sản. Kết quả là cả hai nước đều phải gánh chịu chiến tranh một mình.
Những người chỉ huy quân đội Pháp và Mỹ tưởng rằng nếu kiểm soát được đất đai là nhiệm vụ đã hoàn thành. Họ đến từ các nước, ở đó từ nhiều thế kỷ nay, từ thế hệ này qua thế hệ khác lưu hành một quan điểm là mục tiêu quân sự luôn luôn phải chiếm được ưu thế trên chiến trường. Võ Nguyên Giáp thì không vướng vào những định kiến ấy. Ông biết rằng mục đích đầu tiên không phải là chiếm đất và giữ đất của người dân nông thôn. Ông biết rằng nếu có sự trung thành và ủng hộ của họ thì người Pháp và người Mỹ chỉ tự hào về sức mạnh áp đảo của xe tăng, máy bay, pháo binh và quân số sẽ sớm hay muộn cũng bị thất bại.
Những sự đột nhập của Pháp và bắn phá của Mỹ đã thường xuyên đưa số lớn thường dân đến chỗ nguy hiểm tính mạng, khiến họ không thể sinh sống bình thường được. Như những người di tản đã buộc phải rời khỏi nhà cửa, sống chen chúc ở các vùng đô thị, trở thành một tầng lớp luôn luôn bất mãn với nhà cầm quyền, luôn luôn kêu ca phàn nàn về sự xua đuổi họ và trở thành miếng đất màu mỡ cho tuyên truyền cộng sản. Quân đội chính quy trong khi truy đuổi đã đồng thời đẩy dân thường vào chỗ cùng cực, khiến họ phải sống hàng ngày trong địa ngục: đồng ruộng bị xích xe tăng chà nát, đê điều bị phá hủy, mùa màng bị nhiễm chất độc hay bị lửa thiêu trụi, kho tàng bị tịch thu không được bồi thường, nhà cửa bị đốt, giếng nước bị ô nhiễm, gia súc bị tàn sát, đàn bà con gái bị hãm hiếp, con trai bị tra tấn hay bị coi như kẻ bị tình nghi. Một triết học chiến tranh như thế chắc chắn sẽ kéo theo muôn vàn đau khổ cho những chứng nhân vô tội (và đôi khi không vô tội) và hậu quả là người ta không thể có được sự ủng hộ trung thành của dân chúng.
Trong những điều kiện như thế, Võ Nguyên Giáp và Việt Minh, sau này được kế tục bởi Đảng Nhân dân Cách mạng và cánh tay trợ thủ là Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, được Mỹ gọi là Việt Cộng, không khó khăn gì để có được tính hơn hẳn về tinh thần. Họ tự nguyện là người cứu nguy dân tộc, bảo vệ quyền lợi nhân dân và không có lực lượng nào trong nước có thể cạnh tranh hữu hiệu với họ. Võ Nguyên Giáp không vất vả lắm để tìm kiếm sự ủng hộ trong đám nông dân bất mãn chồng chất vì bị quân Pháp hay Phi và ngụy quân người Việt cướp mất gà vịt, trâu bò và tài sản cá nhân khác, kể cả cưỡng hiếp đàn bà con gái… Võ Nguyên Giáp không gặp khó khăn gì để chìa bàn tay với người dân thành phố bị giam cầm hay bị tra tấn vì đã cả gan cất cao lời lẽ phản đối hay dám tham dự một cuộc họp chính trị bí mật. Ông nghĩ rằng thắng lợi chính trị phải xuất phát từ một lý luận chính trị đúng, rằng làm chiến tranh mà không dựa trên nền tảng chính trị thì chỉ là thổ phỉ, rằng những người chỉ huy quân sự không biết đến các nhu cầu chính trị thì chỉ là bọn quân phiệt.
Khi quân lính không trực tiếp tham gia chiến đấu, Võ Nguyên Giáp dùng họ vào việc vận động quần chúng mà sau này Edward Landsdale – một chuyên gia người Mỹ về chống nổi loạn – gọi đó là “hành động công dân”. Binh sĩ cầm cuốc để sửa lại đê điều, trồng lại lũy tre để che chở xóm làng khỏi bị xâm lăng từ bên ngoài, củng cố hệ thống tưới tiêu, giúp dân cấy lúa, bón phân hay tưới ruộng, thu hoạch mùa màng, đưa người dân bị thương trong chiến đấu về trạm quân y chăm sóc. Những người chỉ huy quân sự nước ngoài đến sau đó và muốn nhanh chóng xoay ngược tình thế, hầu như không tìm được sự ủng hộ nào của dân chúng nông thôn. Những nguyên tắc của Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh đến công tác vận động quần chúng đã vô hiệu hóa mọi công việc của người chỉ huy quân đội nước ngoài. Ngược lại, những thường dân sẵn sàng đi dân công, mang vác gạo hay mọi đồ tiếp tế khác mà quân đội của Võ Nguyên Giáp đang cần. Người dân thể hiện bộ mặt lãnh đạm, lạnh lùng và câm lặng trước những kẻ tìm cách dò la bí mật của Việt Minh. Người dân chống lại kẻ xâm lược nước ngoài dù phải trả giá bằng sinh mạng của họ.
Võ Nguyên Giáp tuyên bố rằng dân tộc ông từ lâu đã thấm nhuần quan điểm chiến tranh nhân dân, trong đó mọi chiến sĩ đều đoàn kết về quân sự và chính trị. Ông viết: “Tư tưởng tiến công của Đảng ta, của lực lượng vũ trang và của nhân dân ta là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các học thuyết truyền thống. Trong lịch sử nước ta, các cuộc khởi nghĩa thắng lợi và việc giải phóng dân tộc đều do chính người dân tiến hành, theo cách riêng của mình. Họ tiến công thường xuyên chống phong kiến và ách thống trị nước ngoài”.
Đối với Madeleine Riffaud, nữ phóng viên báo L’Humanité đã phỏng vấn Võ Nguyên Giáp năm 1968, ông vẫn nói về niềm tin vào truyền thống chiến tranh nhân dân. “Trong lịch sử xa xưa của chúng tôi, điều đó đã trở thành công thức. Toàn dân đồng lòng chống xâm lược”. Võ Nguyên Giáp gợi lại một thí dụ trong lịch sử nhắc cho nữ phóng viên đang đối thoại với mình chuyện cụ Đồ Chiểu (nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu) ở miền Nam đã viết về những “dân thường” ở các làng vì lòng yêu nước đã thành những người “tình nguyện”. Tất cả mọi người làm chiến tranh nhân dân và Võ Nguyên Giáp ca tụng Nguyễn Đình Chiểu khi ông nói về những phụ nữ “chân yếu tay mềm” nhưng vì kẻ địch ở trên mảnh đất của mình, đã “lên ngựa, phất cờ, chèo thuyền, nổ súng, vượt lũy, phá thành”.
Đối với Võ Nguyên Giáp, một con người khác đã đi theo tấm gương của các bậc anh hùng dân tộc là Hồ Chí Minh, người thầy dẫn đường của ông. Ông viết: “Người ta có thể nói không lầm rằng quân đội của chúng tôi là từ nhân dân mà ra, đã được xây dựng theo tư tưởng của Đảng và của Bác Hồ”. Tuy nhiên, đó không phải là lý luận quân sự mà Hồ Chí Minh đã dạy ông mà chính là sự cẩn trọng, tinh thần thực tiễn, sự ngoan cường và ý thức kết hợp lý luận chính trị với hoạt động quân sự. Hồ Chí Minh cho rằng sự thống nhất về chính trị là mục tiêu hàng đầu cần đạt được trước khi bắt đầu bất kỳ một hành động quân sự nào. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải có căn cứ địa vững chắc để ẩn náu khi gặp thất bại về quân sự. Và Võ Nguyên Giáp học tập ở Hồ Chí Minh tinh thần kiên trì. Ông viết: “Đối với chúng tôi, đó là bài học bổ ích nhất trước khi ra trận”. Bài học đó Hồ Chí Minh thường nhắc đi nhắc lại: “Quyết tâm, quyết tâm, có quyết tâm thì làm việc gì cũng thành công”.
Võ Nguyên Giáp còn học tập được ở nhiều nhà lý luận quân sự của cộng sản, đặc biệt là Mao Trạch Đông và Lenin. Ở Lenin, Võ Nguyên Giáp học: Mục đích phải đặt lên trên phương tiện. Mục đích biện minh cho phưong tiện. Mục đích đặt ra như thế nào thì phải huy động mọi phương tiện thích hợp, cốt sao đạt được mục đích. Các chiến sĩ cách mạng phải hy sinh không do dự, nếu việc đó có lợi cho đấu tranh cách mạng. Chính là hiểu rõ tại sao phải làm như thế mà Võ Nguyên Giáp phái hàng nghìn binh sĩ vào cuộc chiến đấu một mất một còn để nhanh chóng đuổi được kẻ thù Pháp, Mỹ đang giày xéo quê hương đất nước ông.
Võ Nguyên Giáp đánh giá đúng giá trị mà những ý tưởng của Karl von Clausewitz mang lại, nhất là khi Clausewitz nhấn mạnh mối quan hệ giữa chính trị và đấu tranh vũ trang. Võ Nguyên Giáp chỉ đạo các chiến dịch sau này theo tiền đề của Clausewitz – người đã thấy yếu tố chính trị là nhân tố quyết định phát động chiến tranh, thước đo các mục tiêu quân sự và các phương tiện để đạt mục tiêu đó.
Ông cũng chú ý nghiên cứu các trước tác của Mao Trạch Đông – người đề xướng học thuyết về chiến tranh nhân dân. Mao cho rằng toàn bộ cuộc sống là do sự chi phối của các quy luật đồng đều, không thay đổi. Chỉ cần hiểu rõ các quy luật ấy, thấy rõ được tầm vóc của chúng rồi biết vận dụng những quy luật ấy trong hành động quân sự cũng như trong cố gắng về kinh tế, chính trị hay xã hội. Võ Nguyên Giáp viết: “Các nước tiến hành vũ trang cách mạng theo những quy luật cơ bản chung đồng thời theo đặc điểm và quy luật riêng”. Ông cũng học ở Mao vai trò cá nhân trong tiến trình cách mạng. Nếu Mao viết: “Nhân dân và chỉ có nhân dân mới là động lực xây dựng lịch sử thế giới… Nhân dân chứ không phải sự vật là quyết định”. Vì vậy, đối với Giáp: “Việc thường xuyên củng cố tinh thần và chính trị là chủ yếu đối với những ai mong muốn những yếu tố cá nhân tạo nên “quần chúng” luôn được giữ vững cho cuộc đấu tranh. Trong chiến tranh có hai yếu tố cơ bản: nhân dân và vũ khí. Cả hai yếu tố đó đều quan trọng nhưng nhân tố con người là quyết định. Chúng ta phải xây dựng một học thuyết mới lấy quân ít nhưng mà tinh. Chúng ta phải giải quyết một vấn đề cơ bản. Chỉ cần một đội quân nhỏ, dựa vào tư tưởng cơ bản là chiến tranh của chúng ta là một cuộc chiến tranh chính nghĩa với những đặc điểm riêng, những tư tưởng quân sự của Việt Nam là tư tưởng nhân dân”. Còn có những điểm khác Võ Nguyên Giáp cũng nhất trí với Mao: Tầm quan trọng của căn cứ và hậu phương, giá trị của chủ động và tiến công, vận dụng kinh nghiệm quân sự của cá nhân, sự cần thiết phải tập trung lực lượng áp đảo đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của tiết kiệm lực lượng.
Nhưng Võ Nguyên Giáp không phải là cái bình chứa trơ ỳ đặt dưới cái mạch nước cách mạng của Mao. Hai người rõ ràng khác nhau trên một số điểm và Giáp bác bỏ không chút vướng víu mọi điều vô nghĩa. Võ Nguyên Giáp thấy rằng chiến thuật biển người đưa ồ ạt bộ binh vào cuộc tiến công, một trong những chiến thuật được Mao ưa thích là một sự phí phạm nguồn lực và ông sớm loại bỏ cách làm này. Ông nhận thấy rõ ràng cuộc chiến theo đúng thể thức là phải dựa trên điều kiện cụ thể của chiến trường hơn là chỉ đơn giản gắn bó một cách ngờ nghệch vào một học thuyết. Về phương diện này, Võ Nguyên Giáp cũng có đầu óc thực tiễn như Hồ Chí Minh. Ông chỉ vận dụng điều gì có ý nghĩa và đem lại hiệu quả thiết thực, ông loại bỏ những lý thuyết của người khác khi những lý thuyết này trái với thực tế của ông.
Làm sao có thể giành được thắng lợi (trong cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ) trong lúc còn kém về quân sự? Võ Nguyên Giáp đặt câu hỏi không phải là không có chút hùng biện. Có phải chiến thắng thuộc về kẻ mạnh không? “Nước ta là một nước phong kiến. Pháp, Nhật, Mỹ đều đã đến Việt Nam. Ba nước đó đều là nước tư bản có trình độ sản xuất rất cao trong lúc Việt Nam còn ở giai đoạn sản xuất thủ công. Vì vậy, chúng ta phải đối mặt với những vấn đề về vật liệu chiến tranh, phương tiện quân sự và hậu cần nói chung.”
“Chúng ta phải giải quyết tất cả các vấn đề đó. Chúng ta phải học cách làm thể nào để giành chiến thắng với các phương tiện ít hơn. Chúng ta phải tìm ra cách sử dụng tốt nhất tổ chức hậu cần nghèo nàn hơn để chiến thắng kể thù. Trong sáu bảy chục năm qua, nhân dân Việt Nam chưa giải quyết được vấn đề đó. Nhân dân ta rất dũng cảm nhưng chưa đủ. Chúng ta phải học tập phương pháp chiến tranh nhân dân. Ba mươi triệu người Việt Nam là ba mươi triệu người lính. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói khi bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp: Ai có súng dùng súng. Ai có dao dùng dao. Ai không có dao thì dùng gậy gộc, đất đá”. Đó là cốt lõi của chiến tranh nhân dân. Ai nấy đều đứng lên chiến đấu chống địch […]. Mỗi người có cách đánh riêng của mình. Mỗi tiểu đội, mỗi trung đoàn đều có phương pháp riêng. Toàn thể dân tộc đứng lên đấu tranh cho tự do và độc lập.”
Võ Nguyên Giáp còn có hai người thầy nữa. Một người là Napoleon. Mặc dù ông không kể tên người chỉ huy quân sự vĩ đại trong trước tác của ông nhưng trong một buổi phỏng vấn vào năm 1988 ông nhắc lại ông chịu ơn Napoleon. Còn người kia là Tôn Tử, một vị tướng đồng thời là triết gia Trung Quốc cổ đại. Trong đó, một trích dẫn của Mao đủ để chỉ ra ảnh hưởng của Tôn Tử đối với ông: “Địch tiến, ta lùi; địch đóng trại, ta quấy rối; địch mệt mỏi, ta tấn công; địch rút lui, ta truy kích.”
Đọc những đoạn trích, những câu châm ngôn của Tôn Tử làm ta nghĩ ngay đến cách thức Võ Nguyên Giáp vận dụng trong những năm đầu chiến tranh chống Pháp, giống nhau giữa học thuyết của Tôn Tử và những gì đã do Giáp phát triển là hiển nhiên. Nhưng khi người ta hỏi ông Binh pháp Tôn Tử đã ảnh hưởng đến ông như thế nào, ông trả lời: “Tôn Tử có những ý kiến rất hay. Trước đây tôi đã được đọc và tôi đã phát hiện ông ta nói rằng… “nếu lực lượng địch đông gấp mười lần thì không nên đánh.” Nếu tôi làm theo lời ông ấy thì có lẽ chúng tôi vẫn còn ở trong rừng sâu. Chúng tôi sẽ không bao giờ chiến thắng được người Pháp và người Mỹ. Học thuyết Tôn Tử bản thân nó là không đủ để chỉ ra cho chúng tôi cách làm những việc mà chúng tôi đã làm như thế nào”.
Còn một người thầy khác tuy không chắc chắn lắm, mà Võ Nguyên Giáp đã học hỏi. Các sĩ quan Pháp đã từng đấu trí với tướng Giáp đều nhận thấy tài năng quân sự của ông không chỉ do sự chuyên tâm và trải nghiệm mà còn do ông thường xuyên nghiên cứu địa lý và lịch sử. Trong các tác phẩm mà Võ Nguyên Giáp đọc, có những tác phẩm của T. E. Lawrence – một người anh hùng huyền thoại của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã giành được chiến công táo bạo cho đất nước Anh, trong các cuộc giao chiến với các nước Ả Rập ở Trung Cận Đông. Một câu chuyện được truyền tai nhau trong hàng ngũ các sĩ quan Pháp: một hôm vào năm 1946, trước khi rút khỏi Hà Nội, Võ Nguyên Giáp đến thăm một sĩ quan Pháp và trông thấy trên bàn có một cuốn sách khiến ông quan tâm. Võ Nguyên Giáp lễ phép nói: “Tôi có thể mượn cuốn sách đó không?”. Viên sĩ quan Pháp trả lời: “Để tôi đọc xong đã”. Đó là cuốn sách của T. E. Lawrence.
Năm 1946, trong một buổi trò chuyện với tướng Raoul Salan, theo người ta kể lại, Võ Nguyên Giáp đã nói với viên tướng Pháp: “Cuốn sách kinh điển về chiến đấu của tôi là Bảy cột trụ của sự khôn ngoan (Seven Pillars of Wisdom). Tôi luôn luôn đem theo cuốn sách đó bên người”. Và chính tướng Salan cũng khẳng định là tướng Giáp chịu ảnh hưởng rất mạnh của Lawrence.
Lawrence đã biết – và Võ Nguyên Giáp cũng học được ở ông ta – về tầm quan trọng của chiến tranh không chính quy và cách mà loại hình chiến tranh này khiến cho đối phương được đào tạo theo kiểu truyền thống phải lẫn lộn. Những ý tưởng đó như những nốt nhạc lọt vào tai Giáp và khiến một người giàu trí tuệ như ông phải suy nghĩ.
Trong cuốn Sự tiến hóa của cuộc khởi nghĩa (The Evolution of a Revolt), Lawrence nhấn mạnh đến các chiến dịch của ông mà Võ Nguyên Giáp đánh giá rất cao. Một cuộc bạo loạn phải có một căn cứ bất khả xâm phạm, không những được bảo vệ để không bị tấn công mà còn không phải lo là sẽ bị tấn công. Lawrence viết: “Cuộc bạo loạn phải đương đầu với một kẻ thù ngoại quốc lão luyện dưới dạng một đội quân chiếm đóng có kỷ luật, nhưng quá nhỏ để thực thi việc chiếm đóng và quá hạn chế về số lượng để có thể điều chỉnh theo không gian nhằm chế ngự có hiệu quả toàn vùng từ những đồn lũy kiên cố”. Không có định nghĩa nào thích hợp hơn tình hình của người Pháp ở Đông Dương. Lawrence lưu ý rằng một cuộc bạo loạn phải có dân chúng đi với mình, không cần thiết phải ủng hộ tích cực, nhưng phải là những người có thiện cảm, không phản bội phong trào bạo loạn. “Một cuộc bạo loạn không cần đến quá 2% quân số tham gia làm lực lượng đột kích và 98% là những người cảm tình thụ động là đủ”. Không biết Lawrence đã viết để người Ả Rập đọc hay cho người Việt Nam đang đấu tranh chống người Pháp?
Lawrence còn nói: “Tính cơ động được bảo đảm, sự an toàn (theo nghĩa các mục tiêu được che giấu kỹ không để lộ cho địch biết), thời gian và học thuyết (tư tưởng biến thù thành bạn), chiến thắng luôn thuộc về những người khởi nghĩa bởi vì các tham số đại số học cuối cùng cũng đều có tính quyết định và mọi sự hoàn thiện về vật chất hay tinh thần để chống lại họ là vô ích”. Vì niềm tin của Võ Nguyên Giáp vào tính tất yếu của lịch sử và tính khoa học tuyệt đối của nghệ thuật quân sự này nên một đường lối như vậy ngay lập tức có được sự đồng tình của ông.
Võ Nguyên Giáp hướng về nhiều tấm gương của quá khứ và những tấm gương đó để lại cho ông những bài học quý báu. Qua việc học hỏi các gương mặt sáng giá trong lịch sử, ông học được cách rèn luyện binh sĩ của mình, đã làm cho họ trở thành nền tảng chính trị tích cực tuyên truyền giác ngộ dân chúng và bộ đội tiến hành chiến tranh lâu dài để làm xói mòn ý chí của kẻ địch mạnh hơn. Những sự kiện cũng dạy cho ông đó là các trận thua hay các trận thắng. Mỗi ngày trôi qua, sự tinh thông của ông lại phát triển thêm. Cuộc cách mạng tháng 8/1945 đã làm cho ông có một khái niệm: thành phố và nông thôn đều là địa bàn chủ yếu cho cách mạng Việt Nam. Các căn cứ ở nông thôn quan trọng vì các thành phố có thể và phải được giải phóng thông qua sự kết hợp khởi nghĩa từ bên trong và tiến công từ bên ngoài. Mối quan hệ với Pháp trong những năm 1945 - 1946 chỉ rõ rằng các cuộc thương lượng nếu không có thắng lợi quân sự đi kèm thì ít khi thành công ngay cả trên những mục tiêu thứ yếu. Cần có phối hợp chặt chẽ giữa hành động chính trị và hành động quân sự. Được vận dụng thích hợp thì hành động thứ nhất trở thành “nổi dậy đồng loạt” và hành động thứ hai thành “tổng tiến công”. Sự kết hợp chặt chẽ hai hành động ấy tạo ra sự đảo lộn ồ ạt tiêu diệt kẻ địch và thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Nhưng chúng ta hãy để cho Giáp nói. Cuối năm 1988, trong một buổi trò chuyện, ông khẳng định: “Nguồn gốc học thuyết quân sự của tôi được xây dựng dựa trên truyền thống đấu tranh và chiến đấu chống ngoại xâm, nâng cao quyền lực của nhân dân để đánh bại kẻ thù mới bằng cách tăng cường chủ nghĩa Mác - Lênin và thiết lập Đảng Cộng sản Việt Nam, nghiên cứu và vận dụng các kinh nghiệm có chọn lọc của Napoleon, và của các nhà quân sự lỗi lạc ở các nước đồng minh Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác”. Mỉm cười, ông nói thêm: “Tôi cũng đã vận dụng một vài ý tưởng hay của học thuyết quân sự Hoa Kỳ”.
Không những Võ Nguyên Giáp trở thành một tướng lĩnh tài ba mà còn là một nghệ sĩ trong cách dùng binh. Ông vừa nhúng bút trong dung môi lịch sử của đất nước ông, chấm phá bằng những màu sắc mượn của Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, của Tôn Tử, của Napoleon, của Lawrence và nhiều người khác để tạo ra những nét vẽ mới trên tấm vải mà nền là Đảng và nhân dân của ông. Ông pha trộn những màu sắc nguyên thủy để tạo nên những sắc thái phụ trợ và những hình bóng mang tính sáng tạo của chính ông. Bức tranh hoàn thành hoàn toàn là của riêng ông – một kiệt tác nghệ thuật.
1. Thomas Edward Lawrence (1888-1935): sĩ quan và nhà văn Anh (BT).
Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt
- Tác giả : Ngô Văn Phú
- Danh mục : Lịch sử