Chiến thắng bằng mọi giá

Chương 19 “Washington không thể nhìn thấy cuối đường hầm”

<<Chương 18 “Chỉ có các triết gia mới nói đến quy luật” Chương 20 “Sông có thể cạn, núi có thể mòn” >>

Chương 19 “Washington không thể nhìn thấy cuối đường hầm”

Võ Nguyên Giáp đã rút ra bài học từ trận Ia Đrăng nhưng cần có thời gian để áp dụng. Đồng thời ông cũng muốn tự mình thấy những người trong vùng chiến sự ở miền Nam xoay xở ra sao. Trong dịp trả lời phỏng vấn của Wilfred Burchett ngày 20/2/1967, Võ Nguyên Giáp kể lại trong một chuyến đi công tác mới đây, ông đã có ấn tượng sâu sắc về người và quang cảnh mà ông chứng kiến: Từng đoàn dân công chở lương thực mà không đòi hỏi trả công. Các chiến sĩ thực hành diễn tập, những đơn vị phòng không học tập, rèn luyện kỹ năng chiến đấu sẵn sàng bắn máy bay đang tấn công, các kỹ sư đi theo các đội thanh niên, công nhân đang sửa chữa cầu đường, các cụ già trồng cây ven đường bị sụt hỏng, nông dân cấy lúa trên đồng ruộng, trẻ em đến trường đều đội mũ rơm… Ông tâm sự với W. Burchett rằng, sức sống của những người dân như thế đã đem lại cho ông những sức mạnh mới: “Nhân dân chúng tôi trong cuộc sống hàng ngày đã tỏ rõ sự quả cảm, tích cực, anh hùng, sáng tạo, lạc quan và tin tưởng trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước.”

Thao thao hùng biện trước một người cánh tả như W. Burchett, Võ Nguyên Giáp kể lại sức sống ấy đã gắn kết đồng bào ông thành một sức mạnh “cứng như thép, vững như đồng”. Rồi trong tâm trạng phấn khởi, ông mô tả những con người ấy có bốn tay: “tay búa, tay súng, tay cày, tay súng”. “Chẳng có gì đáng ngạc nhiên là họ khó có thể bị đánh bại”. Và ông kết luận: “Chúng tôi đang sống trong những giờ phút vĩ đại nhất của lịch sử dân tộc”. Báo chí Ba Lan còn bổ sung thêm những lời bình luận của Võ Nguyên Giáp với Burchett. Đại tướng dự đoán những cuộc ném bom, những hành động tàn bạo, những tội ác chiến tranh có thể sẽ tăng gấp đôi trong năm 1967 sẽ làm cho thất bại cuối cùng của Mỹ càng nặng nề hơn. Võ Nguyên Giáp không còn giữ bí mật về sự chi viện của miền Bắc dành cho Mặt trận Dân tộc giải phóng trong cuộc chiến đấu ở miền Nam.

Trong những tháng sau trận Ia Đrăng, các trung đoàn chính quy của Võ Nguyên Giáp không thắng được trận nào có ý nghĩa. Tháng 6/1966, Sư đoàn 324B được lệnh vượt qua khu phi quân sự để hòng chiếm Quảng Trị thuộc quyền kiểm soát của Việt Nam Cộng hòa. Một sư đoàn khác, Sư đoàn 341 từ Lào tiến sang tỉnh Thừa Thiên Huế. Vùng này có địa hình hiểm trở, giao thông khó khăn, với những dãy núi chạy ngang từ Lào ra biển Đông, ngăn cách với các tỉnh phía nam từ Đà Nẵng trở vào. Đường giao thông chính chạy dọc từ Bắc đến Nam là Quốc lộ 1, hai chiều qua đèo Hải Vân quanh co, dốc đứng và lộng gió với địa hình rất thuận lợi cho các cuộc phục kích. Người ta đành đưa đến đó một lực lượng nhỏ lính thủy đánh bộ để đối phó với các cuộc tấn công của đối phương. Ở đây không có cuộc giao tranh nào quan trọng để chiếm lĩnh đất đai của nhau, cũng không có những trận Điện Biên Phủ nhỏ để có thể lay động dư luận Mỹ. Rõ ràng là các kế hoạch của miền Bắc nhằm giành một chiến thắng quân sự có thể chuyển hướng đột ngột.

Westmoreland mở Cuộc hành quân Irving trong tỉnh Bình Định. Kế tiếp là Cuộc hành quân Attleboro khá tốn kém về người và phương tiện chiến tranh trong tỉnh Tây Ninh trong tháng 10/1966 đánh vào chiến khu C – một vùng từ lâu là căn cứ của Trung ương Cục miền Nam. Võ Nguyên Giáp cảm thấy càng ngày càng khó khăn trong việc chuẩn bị hay mở các cuộc hành quân quan trọng mà không gây ra những cuộc tiến công trả đũa của Mỹ có sức tàn phá lớn. Tuy nhiên, theo ông, nếu có những trận thua thì cũng không thể xem là thất bại trong cuộc chiến. Ngay cả khi không đi đến thắng lợi, ông cũng ít có khả năng thua Mỹ về quân sự. Quân số của ông vào năm 1967 tăng lên so với đầu năm 1966 vì làn sóng đưa người và vũ khí vào miền Nam vẫn tiếp tục và chưa có dấu hiệu sẽ giảm xuống.

Đầu năm 1967, mặc dù Westmoreland đã có 389.000 quân ở miền Nam Việt Nam, nhưng Việt Cộng vẫn tiếp tục kiểm soát một phần lớn cao nguyên miền Trung (đặc biệt là về ban đêm) và tiếp tục duy trì hoạt động của các căn cứ ở miền Nam cũng như những con đường tiếp tế từ miền Bắc vào. Ở miền Bắc người ta lo ngại Mỹ tăng quân nhưng chính quyền chỉ cho Westmoreland có hơn 500.000 thay vì một triệu quân như ông ta yêu cầu.

Ngày 8/1/1967, ba sư đoàn Mỹ vây vùng Tam giác Sắt – một căn cứ vững chắc của Việt Cộng. Đó là Cuộc hành quân Cedar Falls. Ba vạn lính Mỹ được tung vào chiến dịch này nhằm tiêu diệt khu căn cứ rộng lớn một trăm cây số vuông gồm toàn bộ các làng trong vùng. Trong đó có một làng tên là Bến Súc. Lính Mỹ tràn vào làng đuổi hết dân cư rồi châm lửa đốt nhà cửa, thóc lúa. Tất cả dân làng bị đối xử như chính họ là Việt Cộng (cũng có thể có trường hợp như vậy) kể cả đàn bà, trẻ em, tất cả đều coi thường dân như thù nghịch và bị gom lại đưa đến các vùng dân cư mới. Các xe ủi san phẳng Bến Súc và các làng khác. Lính công binh Mỹ phá hủy các lều lán cho đến cả cây cối. Rút khỏi Bến Súc, quân Mỹ để lại làng mạc với nhà cửa bị tàn phá tan hoang, một vùng đất rộng mười hecta trở thành đất trống.

Ngày 22/2, Westmoreland mở Cuộc hành quân Junction City nối liền với Cuộc hành quân Cedar Falls vừa kết thúc. Một lần nữa, đây là một cuộc càn tìm và diệt trong vùng chiến khu C gần biên giới Campuchia, phía bắc thành phố Tây Ninh. Trên 45.000 lính Mỹ và ngụy (Việt Nam Cộng hòa) phối hợp tiến hành càn quét kéo dài, gần ba tháng trời đằng đẵng trên một vùng đất nhỏ hẹp. Tuy quy mô lớn nhưng cuộc hành quân vẫn thất bại hiển nhiên. Quân Mỹ chỉ thấy ít lính đối phương, hơn nữa cũng không xác định được vị trí các kho lương thực của đối phương. Quân Mỹ vừa rút được vài ngày, các đơn vị Việt Cộng lại chiếm lại.

Sức mạnh hùng hậu và công nghệ Mỹ đã làm nhiều nhà lãnh đạo Bắc Việt lo ngại. Một nhà lãnh đạo Hà Nội đã tiên đoán: “Chỉ cần 5 năm nữa, những gì còn lại ở Việt Nam sẽ trở thành hoang mạc”, Các phái đoàn quân sự đến từ Triều Tiên, Cu Ba và Trung Quốc bí mật đi thăm chiến sự, họp nhau lại trước khi lên đường về nước, đã cảnh báo Việt Nam phải đề phòng một cuộc chiến tranh kéo dài vô thời hạn. Mặc dù vậy, ngày 29/3/1967, Võ Nguyên Giáp ra lệnh tiến công. Các vị trí từ Cam Lộ, Gio Linh và Dốc Miếu ở bờ nam giới tuyến bị san phẳng bằng hỏa lực trọng pháo đặt ở bờ bắc.

Tháng 4/1967, Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản lần thứ 13. Hội nghị thông qua nghị quyết 13 kêu gọi miền Nam nổi dậy để giành một thắng lợi có ý nghĩa quyết định trong thời gian ngắn nhất. Không có chuyện chiến tranh tiêu hao. Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương hành động ngay lập tức và tổng lực để giành thắng lợi. Võ Nguyên Giáp không tán thành kế hoạch này vì ông vẫn bảo lưu quan điểm về việc tiến hành chiến tranh tiêu hao. Tuy nhiên, là một quân nhân gương mẫu, ông nén sự phản đối lại và cho bộ tham mưu triển khai công việc. Người ta tiến dần đến cuộc tiến công Tết Mậu Thân 1968.

Tháng 10/1967, Võ Nguyên Giáp viết bình luận dài về chiến lược riêng của ông đăng ở báo Nhân dânQuân đội nhân dân, dịch ra tiếng Anh dài 54 trang. Võ Nguyên Giáp khẳng định một lần nữa miền Bắc sẽ chiến đấu cho đến thắng lợi hoàn toàn. “Chúng ta”, ông viết, “ở vào bước ngoặt của chiến tranh và thất bại của Hoa Kỳ đang đến rất nhanh”. Ông miêu tả “chiến thuật Mỹ trong hai năm qua là một thất bại hoàn toàn”. Theo thường lệ, ông nói đến chiến tranh tiêu hao mà quân Mỹ không thể chịu đựng nổi. Khác với một số bài khác cũng do ông viết, lần này có giọng kiên quyết hơn và ông khích lệ dân chúng miền Bắc chấp nhận khó khăn và hy sinh thêm nữa. Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh sẽ tiến hành những biện pháp kỷ luật chống lại những cá nhân, đơn vị quân đội và cả xóm làng coi thường công tác phòng không. “Thái độ qua loa tắc trách, nông nổi, gây nguy cơ lơ là cảnh giác, có lợi cho các cuộc ném bom của Mỹ, gây nguy cơ cho giao thông và vận chuyển tiếp tế cho mặt trận, sẽ không được tha thứ”.

Ông khăng khăng giữ lập trường thân Liên Xô của mình. Mặc dù khá thận trọng để cảm ơn Trung Quốc về sự giúp đỡ, ông vẫn viết bài cho báo Sao đỏ của Liên Xô ra ngày 21/10 ca ngợi cách mạng tháng Mười Nga mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại. Ông viết: “Nhờ có Liên Xô và Trung Quốc, nhân dân Việt Nam tiếp bước thắng lợi trên con đường vinh quang của cách mạng tháng Mười”.

Mặc dù không đồng ý với quyết định của Bộ Chính trị, nhưng Võ Nguyên Giáp vẫn lập kế hoạch cẩn thận cho cuộc tiến công mới ở miền Nam, kế hoạch này mang biệt danh TCK-TKN (viết tắt của cụm từ Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa). Ông dự tính một chiến dịch sẽ bắt đầu vào mùa thu năm 1967 bằng các cuộc tiến công dọc biên giới của Việt Nam Cộng hòa để kìm giữ số đông lính Mỹ. Rồi tiếp đến một cuộc tổng tiến công có phối hợp chặt chẽ đánh vào tất cả các thành phố quan trọng ở miền Nam. Các cán bộ ở miền Nam phải phát động cuộc nổi dậy đồng loạt mà đỉnh cao là lật đổ chính quyền miền Nam hoặc ít nhất thành lập một liên minh do người cộng sản chi phối và Giáp có trù liệu một kế hoạch tiến công căn cứ lính thủy đánh bộ Mỹ ở Khe Sanh.

Trong lúc miệt mài trong công tác xây dựng kế hoạch, tháng 10, Võ Nguyên Giáp cùng Tổng bí thư Lê Duẩn và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đến Matxcova dự lễ kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga. Trong khi ghé lại Bắc Kinh, Võ Nguyên Giáp đã thông báo cho Trung Quốc kế hoạch chiến dịch TCK- TKN. Hài lòng thấy miền Bắc bỏ mọi sự trung thành với chính sách chung sống hòa bình của người Xô Viết, người Trung Quốc đề nghị viện trợ ngay cho Bắc Việt. Để quân đội Bắc Việt rảnh tay chuẩn bị đối phó với âm mưu của Mỹ mở rộng chiến tranh, Trung Quốc đề nghị gửi 100.000 lính sang đảm bảo hậu cần cũng như lái xe tải, 200.000 công nhân sang duy trì đường bộ và đường sắt. Họ cũng hứa hẹn cung cấp cho Bắc Việt pháo 107 mm và 240 mm, có tầm bắn xa 130 km. Hồ Chí Minh chỉ nhận một phần đề nghị đó. Cuối cùng có khoảng 120.000 người Trung Quốc sang phục vụ ở Việt Nam, chủ yếu là dọc đường xe lửa Hà Nội đến biên giới. Sau đó, người Nga không muốn chậm chân, cam kết đẩy mạnh viện trợ cho Bắc Việt gồm xe bọc thép và trọng pháo.

Lễ Giáng sinh càng đến gần, các kế hoạch đã chuẩn bị xong. Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng gửi chỉ thị chiến dịch Đông Xuân cho các chỉ huy chiến dịch. Những ngày đầu năm 1968, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh tuyên bố: cuộc thương lượng hòa bình với Mỹ có thể bắt đầu khi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc. Tin này chỉ là mưu kế để thuyết phục Nhà Trắng thông báo ngừng ném bom, điều này có thể tạo điều kiện cho Võ Nguyên Giáp và Trung ương Cục miền Nam rảnh tay chuẩn bị tiến công mà không phải luôn luôn bận tâm đến các cuộc ném bom ở miền Bắc.

Khe Sanh ở về phía tây tỉnh Quảng Trị, cách khu phi quân sự 25 km về phía nam và cách biên giới Lào 10 km. Westmoreland cho rằng đó là một vị trí có tầm quan trọng chiến thuật. Các lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng hòa có thể sử dụng làm bàn đạp cho các cuộc hành quân ở Lào. Đó cũng là một vị trí thuận lợi để ngăn quân lính Bắc Việt không được xâm nhập và chuyển tiếp tế qua vĩ tuyến 17 vào miền Nam.

Các kỹ sư Mỹ đã xây dựng ở đây một đường băng có thể cho máy bay C-123 và C-130 hạ cánh. Đây là hai loại máy bay vận tải có sức chở lớn của ngành hậu cần Mỹ. Khe Sanh được một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ bảo vệ. Ngày 24/4/1967, tiểu đoàn này đã đẩy lùi một cuộc tiến công của hai trung đoàn quân Bắc Việt trong một trận đánh kéo dài 12 ngày. Mặc dù bị thiệt hại, nhưng Võ Nguyên Giáp đã đạt được mục đích. Westmoreland buộc phải gửi thêm quân trong các tỉnh cực bắc, trong khi đáng lẽ phải tiến hành các nhiệm vụ “tìm diệt” như trong các cuộc hành quân Cedar Falls và Junction City.

Cuối năm 1967, trong khi Võ Nguyên Giáp ráo riết chuẩn bị kế hoạch tiến công Tết Mậu Thân sắp tới, thì các sĩ quan tình báo Mỹ lại phân tích sai những ý đồ của đối phương. Họ thông báo rằng việc tăng rõ rệt các cuộc điều quân của địch là báo hiệu một cuộc tiến công lớn sắp xảy ra đến nơi vào Khe Sanh. Một số cũng bày tỏ lo ngại đến an toàn của các thành phố, tướng Westmoreland ra lệnh tăng viện cho Khe Sanh 4.000 lính thủy đánh bộ nữa và mở Cuộc hành quân Niagara chống lại Sư đoàn 325C của Võ Nguyên Giáp. Lực lượng không quân Mỹ đã tấn công vào các vị trí của Bắc Việt hơn 5.000 lần, ném hơn 100.000 tấn bom đạn xuống một khu vực chưa đầy 8 cây số vuông.

Người phương Tây đôi khi chỉ trích Võ Nguyên Giáp muốn lặp lại chiến công Điện Biên Phủ ở Khe Sanh. Ngày 20/1/1968, Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 26 lính thủy đánh bộ chạm trán với một tiểu đoàn quân Bắc Việt cố thủ hai ngọn đồi ở tây bắc Khe Sanh. Ngay ngày hôm sau lính Bắc Việt lại tiến công Khe Sanh, chiếm được làng và pháo binh tầm xa của họ bắn vào căn cứ lính thủy đánh bộ. Cả thế giới nhìn về Khe Sanh trong lúc lính của Võ Nguyên Giáp đã chiếm lĩnh vị trí để phát động chiến dịch Tết Mậu Thân. Mục tiêu của Võ Nguyên Giáp vượt xa Khe Sanh nhằm vào toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, Westmoreland nghĩ rằng Võ Nguyên Giáp chỉ tập trung quân quanh Khe Sanh và sẽ lập lại trận Điện Biên Phủ. Cuộc bao vây Khe Sanh chỉ kết thúc vào giữa tháng 4/1968, khi nhiều đơn vị lính Mỹ đến chi viện bắt được liên lạc với lực lượng phòng thủ căn cứ. Các sư đoàn của Võ Nguyên Giáp rút lui và cuối cùng quân đội Mỹ rút bỏ Khe Sanh ngày 13/6/1968.

Giữa tháng 1/1968, Võ Nguyên Giáp quyết định thời gian cuối cùng của cuộc tiến công lớn ở miền Nam và để theo dõi sát sao các cuộc giao chiến, ông đặt tổng hành dinh các cuộc hành quân không xa Khe Sanh. Ông tiến hành một công việc thực vất vả nhưng có thể dẫn đến cuộc chiến thắng lớn.

Theo ý kiến của nhiều người, cuộc tiến công Tết Mậu Thân là trận đánh quyết định của cuộc chiến tranh này. Thời đó, các nhà phân tích tình báo quân đội Mỹ bị bất ngờ về cuộc tiến công, không phải vì thiếu thông tin về các kế hoạch tiến công. Đúng hơn là do họ đã hiểu sai về mục tiêu, địa điểm và quy mô cuộc tiến công. Các kế hoạch nghi binh của Võ Nguyên Giáp nhằm đánh lạc hướng chú ý của các lực lượng Mỹ về mục tiêu chủ yếu của họ là các vùng ven biển ở miền Nam bằng các hoạt động ở vùng giới tuyến hoặc vùng biên giới. Các sĩ quan tình báo Mỹ xem những cuộc tiến công đó như là dấu hiệu thắng lợi của quân Mỹ trong việc bảo vệ Nam Việt Nam chống lại các đơn vị quân chính quy Bắc Việt. Ngoài ra, bộ chỉ huy Mỹ cũng cho rằng cộng sản tập trung lực lượng đánh các đơn vị quân Mỹ hơn là đánh vào các vùng đông dân. Vì vậy, cuối năm 1967, tướng William Westmoreland ra lệnh cho các đơn vị quân Mỹ ở ngoài các vùng đông dân phải ngăn chặn các cuộc tiến công vào biên giới Nam Việt Nam. Bộ chỉ huy Mỹ cũng biết miền Bắc hay lợi dụng các cuộc ngừng bắn trong dịp Tết để tổ chức lại hậu cần hơn là mở các cuộc tiến công. Không có dấu hiệu nào cho biết dịp nghỉ Tết năm 1968 khác hẳn các tết trước.

Võ Nguyên Giáp đã nắm quyền chủ động. Các hoạt động tác chiến ở vùng biên giới chỉ là cuộc tổng diễn tập của Quân giải phóng. Bắc Việt cần có thêm kinh nghiệm để có khả năng tác chiến trong các vùng đô thị và cuộc diễn tập cho phép quân Việt Cộng chuẩn bị chu đáo hơn khi đánh vào vùng dân cư và các cơ sở quân sự. Các trận đánh ở biên giới giúp Võ Nguyên Giáp liên tục giáng cho quân Mỹ những tổn thất nặng nề. Ông biết rõ hậu quả tâm lý của các tổn thất đó đối với dư luận Mỹ.

Thoạt đầu, cuộc tiến công được dự kiến nổ ra đêm 29 rạng ngày 30/1 nhưng đến phút cuối cùng Võ Nguyên Giáp ra lệnh hoãn lại 24 tiếng. Một vài đơn vị Việt Cộng đã không được thông báo kịp thời việc hoãn ngày tiến công nên đã nổ súng sớm hơn ở Nha Trang ngay từ đêm 29/1. Một vài thành phố khác ở bắc phần và trung phần Việt Nam Cộng hòa bị pháo kích và tiến công mặt đất ngay từ đêm 29. Sáng sớm hôm sau, tất cả các lực lượng của địch đều rút lui. Và chỉ đúng sau nửa đêm 30/1 vào những giờ đầu tiên của ngày 31, Hồ Chí Minh chính thức ra lệnh tiến công với một bài thơ đọc trên đài phát thanh Hà Nội:

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua

Thắng lợi tin vui khắp nước nhà

Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ

Tiến lên, toàn thắng ắt về ta!

Các đơn vị Việt Cộng bất thình lình phá vỡ không khí Tết ở miền Nam đã tiến công 41 trong tổng số 44 tỉnh và năm thành phố trong sáu thành phố lớn ở miền Nam. Quân giải phòng giành được ưu thế gần như khắp nơi, trong khoảng thời gian từ vài giờ đến 27 ngày như ở Huế. Tại đây họ cố thủ và giương cờ của họ trên pháo đài bảo vệ thành cổ. Ở Sài Gòn, họ tấn công sứ quán Mỹ, căn cứ không quân Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa. Trong địa bàn Vùng 1 chiến thuật ngoài Huế, Việt Cộng tấn công các thành phố Quảng Trị, Tam Kỳ và còn đụng độ với lính thủy đánh bộ ở Chu Lai và Phú Bài. Tại Vùng 2 chiến thuật, Việt Cộng vây hãm Tuy Hòa, Phan Thiết và các căn cứ ở An Khê và Bồng Sơn. Tại Vùng 3 chiến thuật, Việt Cộng tấn công căn cứ quân đội Cộng hòa ở Biên Hòa và tràn ngập Long Bình - căn cứ hậu cần lớn nhất của quân Mỹ ở Việt Nam, tất cả các mục tiêu trong cả vùng đồng bằng Cửu Long thuộc Quân đoàn IV bị tấn công.

Các kế hoạch của Võ Nguyên Giáp là giáng những đòn chớp nhoáng, khúc dạo đầu dẫn đến sự sup đổ của Nam Việt Nam. Để làm được việc này, quân đội của Võ Nguyên Giáp phân tán thành những đơn vị nhỏ cỡ một trung đội và thường để ở tuyến sau những đội dự bị. Cách đánh này không sử dụng những nguyên tắc đánh ồ ạt và bất ngờ nên trận đánh không gây được sự chú ý trong thời gian đầu. Thoạt đầu, quân của Võ Nguyên Giáp tiến nhanh, tập kích vào các sở chỉ huy và đơn vị Mỹ. Trung ương Cục miền Nam đóng dọc biên giới Campuchia cho nên thường xuyên báo cáo về tổng hành dinh tại Hà Nội diễn biến các trận đánh. Suốt một thời gian, chỉ huy quân sự Mỹ nghĩ rằng sở dĩ bộ đội đánh vào thành phố chỉ để đánh lạc hướng chú ý của mục tiêu số một là Khe Sanh.

Cuộc tiến công Tết Mậu Thân cũng phạm phải những sai lầm. Việt Cộng được lệnh đánh vào những làng ủng hộ Chính phủ Sài Gòn, tưởng rằng quân đội Cộng hòa sẽ không sử dụng pháo binh hay máy bay để trả đũa, sợ gây thiệt hại cho thường dân trong vùng ủng hộ chính quyền. Cách tính toàn này đã bộc lộ sai lầm trong trường hợp Bến Tre, thủ phủ tỉnh Kiến Hòa, lúc đầu rơi vào tay Quân giải phóng. Máy bay Mỹ và pháo hải quân ném bom bắn phá ác liệt để giải cứu, sau đó lính Mỹ và lính Việt Nam Cộng hòa đã lấy lại được Bến Tre. 4.000 thường dân mất nhà cửa, 1.500 người bị thương và 600 người chết. Một thiếu tá Mỹ giấu tên đã tuyên bố với phóng viên Peter Arnett: “Chúng tôi hủy diệt Bến Tre để giải phóng thành phố”.

Bất chấp khía cạnh bạo tàn của thủ đoạn đối phó này, Bộ Chỉ huy Mỹ cho rằng làm như thế là không có gì phạm luật chiến tranh vì kẻ địch đã trà trộn vào dân chúng. Võ Nguyên Giáp còn vấp phải một vấn đề khó khăn khác. Trước đây, ông thường dựng sa bàn hoặc dựng trận địa giả để xác định mục tiêu tấn công và phổ biến kế hoạch cho các cấp chỉ huy và cho các đơn vị quen với địa hình và mục tiêu tấn công. Nhưng trong tổng tiến công Tết Mậu Thân, Võ Nguyên Giáp không làm như thế, bởi vậy số lớn chiến sĩ khi đã nổ súng không làm đúng như Võ Nguyên Giáp mong đợi ở họ. Nhiều đơn vị biết mục tiêu phải tấn công chỉ có vài tiếng đồng hồ trước khi xuất quân. Dù có những nhược điểm đó, nhưng nhìn toàn cục cuộc tiến công Tết Mậu Thân đã gây được bất ngờ rất lớn. Trong cuộc tiến công này, Võ Nguyên Giáp đã giành được quyền chủ động, đẩy Mỹ vào thế bị động đối phó, tập trung vào bảo vệ thành phố, bỏ trống vùng nông thôn không còn được sự che chở của quân Mỹ.

Tiến công Tết Mậu Thân đã không thành công về mặt chiến thuật. Mặc dù công tác hậu cần của Võ Nguyên Giáp đã đảm bảo đủ quân số, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho miền Nam cũng như có kế hoạch tiến công được chuẩn bị chu đáo nhưng không một mục tiêu nào đạt được. Quân Mỹ nhanh chóng đối phó với cuộc tiến công Tết Mậu Thân. Hỏa lực áp đảo của Mỹ và quân đội Cộng hòa đã phá hủy nhiều cơ sở hạ tầng mà Việt Cộng đã mất nhiều công sức mới xây dựng được và cố giữ gìn trong hơn 14 năm qua đến nay. Quân giải phóng Việt Nam đã phải chịu tổn thất khá nặng nề.

Tuy nhiên, theo quan điểm của Võ Nguyên Giáp, cuộc tiến công Tết Mậu Thân cũng có những kết quả tích cực. Ít nhất từ lúc quân Mỹ lần đầu tiên đổ bộ vào miền Nam năm 1965 đến cuối cuộc tiến công Tết Mậu Thân năm 1968, Võ Nguyên Giáp đã đẩy quân đội Mỹ vào thế bế tắc, mặc dù Mỹ hơn hẳn về trang bị vũ khí và thiết bị kỹ thuật. Nếu đem sức mạnh của quân Mỹ để đối chiếu với sự hạn chế về nguồn lực của Võ Nguyên Giáp thì đó sẽ là một kỳ tích. Một nhà bình luận đã ca ngợi tài năng của Võ Nguyên Giáp: “Ông xứng đáng được kính trọng, một trong những nhà thực hành có tài trong binh nghiệp”.

Để tăng cường lực lượng, từ 1/1 đến 5/5/1968, Võ Nguyên Giáp cho gần 90.000 người lên đường vào Nam chiến đấu. Đích thân ông và bộ tham mưu hăng say làm việc chuẩn bị mở cuộc tiến công mới. Từ bây giờ quân đội của ông sử dụng những thiết bị quân sự mới và tốt nhất: Rốc-két B-40, trọng pháo 155 mm, súng phun lửa và xe tăng. Cuối cùng ông cũng nắm vững được nghệ thuật phối hợp bộ binh với pháo binh, công binh và các đơn vị đặc công, mặc dù bộ binh vẫn là binh chủng chủ yếu. Ngày 7/5/1968, đội quân của Võ Nguyên Giáp tiến công Mậu Thân đợt hai với 119 trận đánh vào các mục tiêu ở tỉnh và huyện miền Nam. Một lần nữa, Sài Gòn, Chợ Lớn và Tân Sơn Nhất chìm trong khói lửa. Tuy nhiên, đợt tiến công này cũng không đạt được kết quả mong đợi.

Mặc dù Võ Nguyên Giáp đạt được thế bất ngờ nhưng trong hai tuần lễ đầu quân Mỹ vẫn có thể phản ứng kịp, sử dụng hỏa lực mạnh để vừa đẩy lùi các cuộc tiến công vừa quật lại, giáng những đòn chí mạng gây thiệt hại nặng cho địch thủ. Nhưng họ đã bỏ lỡ một cơ hội duy nhất. Thắng lợi lớn nhất của Võ Nguyên Giáp không phải là trên chiến trường đánh vào lực lượng Mỹ mà thắng ngay trên đất Mỹ.

Trong các hiệu quả tâm lý của cuộc tiến công Tết Mậu Thân, có bài bảo của Time ca ngợi tướng Giáp là “kẻ thù nguy hiểm, lắm mưu nhiều kế đã trở thành con người huyền thoại trên cả hai miền của Việt Nam do đánh bại người Pháp ở Điện Biên Phủ… Một trong những nhà khởi xướng… của phép đánh du kích, một nhà chiến thuật có tài đến mức các chuyên gia Mỹ so sánh với Thống chế Tổng tư lệnh quân Đức Erwin Rommel”. Báo Newsweek cũng viết: “Cuộc tiến công táo bạo của năm mới âm lịch, chỉ một trận đã thay đổi bản chất của cuộc chiến”. Đúng thế. Mặc dù hỏa lực của Mỹ và quân đội Sài Gòn đã làm Võ Nguyên Giáp thất bại về chiến thuật, nhưng cuộc tiến công Tết Mậu Thân đã đưa lại cho ông lần thứ hai trong đời một chiến thắng lớn. Điện Biên Phủ thất thủ năm 1954 đã buộc Chính phủ Pháp phải chấm dứt chiến tranh, cuốn gói khỏi Việt Nam. Tương tự như vậy, cuộc tiến công Tết Mậu Thân đã thuyết phục được càng nhiều người Mỹ phải tìm cách kết thúc cuộc chiến. Robert O’Neill đã tóm tắt đúng câu hỏi: “Nếu ông ta (Giáp) đã đặt kế hoạch cho cuộc tiến công để đạt được những kết quả như thế thì ông quả là con người lỗi lạc thấu hiểu các vấn đề tâm lý và chính trị của đối phương”.

Võ Nguyên Giáp gặp Madeleine Riffaud, phóng viên báo L’Humanité – cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp – trong những ngày cuối tháng 5 đầu tháng 6 trong tâm trạng sáng khoái cao độ. Một lần nữa ông là thành viên không phải bàn của nhóm lãnh đạo Hà Nội, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng. Đánh giá thấp những cố gắng của Mỹ, ông nói: “Westmoreland đã tìm cách gia tăng sức mạnh của quân Mỹ bằng việc nâng quân số từ khoảng 20.000 người lên tới trên 500.000 người. Tuy nhiên, Washington vẫn không thể nhìn thấy cuối đường hầm”. Ông kể ra năm mục tiêu của Lầu Năm Góc: loại trừ mối đe dọa của Việt Cộng, bình định nông thôn, bảo vệ miền Nam chống ngoại nhập bằng đường bộ và đường biển, phá hoại miền Bắc bằng các cuộc ném bom và củng cố chính quyền ngụy ở miền Nam. Nhưng không một mục tiêu nào hoàn thành. Ông nói: “Chiến trường miền Nam đối với người Mỹ là cái thùng không đáy”.

Đó là thời gian Võ Nguyên Giáp rất bận rộn với những cuộc phỏng vấn. Một tuần sau, ông lại nói chuyện với Tổng biên tập báo Algeria El Moudjahid: “Những trận đánh lẻ tẻ hiện nay giữa lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ là một trận Điện Biên Phủ kéo dài. Thắng lợi của chúng tôi là chắc chắn, không ai có thể nghi ngờ được”. Vị khách Algeria nhắc lại rằng chiến thắng của Võ Nguyên Giáp ở Điện Biên Phủ năm 1954 đã đưa đến Hiệp định Geneva kết thúc chiến tranh với Pháp. Vậy sau tiến công Tết Mậu Thân có cuộc thương lượng nào không? “Dĩ nhiên là trong lịch sử có những cái tương tự nhưng không bao giờ giống nhau hoàn toàn.” Chắc chắn là Võ Nguyên Giáp không một chút tin tưởng vào cuộc thương lượng đang diễn ra ở Paris và ông không tin “đế quốc Mỹ có thiện ý”. Ông bày tỏ sự biết ơn đối với người Algeria đã ủng hộ về mặt tinh thần cho cuộc đấu tranh của Việt Nam.

Ở Mỹ, Thượng nghị sĩ Eugene McCarthy (Đảng Dân chủ, bang Minnesota) trước cũng đi dạy học và đấu tranh chống chiến tranh, đã cố giành được 42% số phiếu trong các cuộc tuyển cử sơ bộ, chống lại Johnson ở bang New Hampshire. Bốn ngày sau, Robert Kennedy nhảy vào cuộc đua tranh chức Tổng thổng với tư cách ửng cử viên Đảng Dân chủ cũng có khuynh hướng tương tự. Thượng nghị sĩ George Aiken (Đảng Cộng hòa, bang Vermont) lầu bầu: “Nếu tiến công Tết Mậu Thân là một thất bại, tôi cho rằng Việt Cộng sẽ không bao giờ đạt được một thắng lợi lớn”. Walter Cronkite, người dẫn chương trình truyền hình được hâm mộ ở Mỹ lâu nay ủng hộ chiến tranh, nay cũng tuyên bố trong một bài xã luận rằng “cuộc chiến tranh này chỉ đưa đến ngõ cụt đẫm máu”. 139 nghị sĩ Hạ viện yêu cầu Tổng thống Johnson xem lại chính sách đối với Việt Nam. Clark Clifford – Bộ trưởng Quốc phòng mới – thúc giục Tổng thống rút quân khỏi Việt Nam. Thế là quá đủ! Tối ngày 31/3/1968, Johnson tuyên bố trên đài truyền hình: “Tôi sẽ không ra tranh cử cũng không nhận đảng tôi giới thiệu tôi làm Tổng thống”.

Ngày 13/5/1968, Hoa Kỳ bắt đầu các cuộc thương lượng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Paris. Đại diện cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Xuân Thủy. Đại diện cho Mặt trận Dân tộc giải phóng là Nguyễn Thị Bình. Nguyễn Cao Kỳ nguyên là tướng không quân lòe loẹt của không lực Cộng hòa, Phó tổng thống, thay mặt cho Việt Nam Cộng hòa. Còn phía Mỹ có W. Averell Harriman làm đại diện. Các cuộc thảo luận kéo dài trong lúc cuộc chạy đua vào Nhà Trắng đang quyết liệt. Richard Nixon tuyên bố ông có một kế hoạch bí mật nhằm chấm dứt chiến tranh. Harriman chán chường rời Paris tháng 1/1969, còn xa mới đạt được một hiệp nghị so với hồi ông được bổ nhiệm làm đại diện Hoa Kỳ tại Hội nghị Paris tháng 5 năm trước.

Ở Việt Nam, tướng Abrams tuân lệnh Tổng thống chấp nhận cách tiếp cận về cuộc xung đột giống như người Pháp trước đây. Hoa Kỳ không thể cứ tiếp tục chiến đấu mãi, cuộc chiến đấu phải do quân đội Sài Gòn đảm nhận. Người Pháp gọi đó là “vàng hóa” còn người Mỹ gọi là “Việt Nam hóa chiến tranh”. Giao cho quân đội miền Nam Việt Nam tiếp tục cuộc chiến có lẽ không phải là cách duy nhất có công hiệu để đảm bảo nền độc lập lâu dài cho một miền Nam Việt Nam chống cộng sản nhưng việc đó cung cấp cho Hoa Kỳ một lối thoát: Họ có thể tuyên bố chương trình Việt Nam hóa chiến tranh là một thắng lợi và bắt đầu rút quân ra khỏi Việt Nam. Lực lượng quân đội Mỹ ở Việt Nam sẽ giảm dần. Võ Nguyên Giáp chế nhạo ý tưởng này bằng cách nói rằng: “Đó không chỉ là thảm kịch với quân đội bù nhìn mà cả với quân đội Mỹ”. Và ông có lý.

Trong lúc đợt hai của cuộc tiến công Tết Mậu Thân đang diễn ra ác liệt thì Bộ Chính trị đã họp đánh giá tình hình. Bộ Chính trị đã thẳng thắn nhận xét cuộc tiến công Tết Mậu Thân có một sai lầm lớn đến mức sức mạnh quân sự ở miền Nam đã nghiêng về phía Mỹ và quân đội Cộng hòa. Do đó, phải bỏ giai đoạn ba tức là giai đoạn phản công do quân chính quy tiến hành để trở về giai đoạn hai tức là chiến tranh du kích. Võ Nguyên Giáp vui mừng và sau tháng 5 ông không trù liệu một kế hoạch tiến công mới có quy mô nào nữa. Ngay Trung ương Cục miền Nam cũng hoan nghênh tạm dừng tiến công lớn. Tháng 4/1969 Trung ương Cục ra chỉ thị: “Không bao giờ và không một lúc nào chúng ta liều lĩnh đưa toàn bộ lực lượng quân sự ra chỉ để tiến công một lần”.

Các cuộc thương lượng ở Paris được nối lại ngày 25/1/1969. Lần này Henry Cabot Lodge là người thay thế W. Averell Harriman đứng đầu phái đoàn Hoa Kỳ. Lodge nhanh chóng nhận ra Xuân Thủy cũng “cứng đầu” như Harriman. Lodge cố đưa ra thảo luận vấn đề trung lập của khu phi quân sự. Xuân Thủy yêu cầu ngừng chiến tranh. Mặc dù hai bên vẫn gặp nhau đều đều mỗi tuần một lần cho đến cuối năm đó nhưng đã không đạt được tiến bộ nào. Chỉ một tháng sau cuộc gặp lại đó ở Paris, ngày 22/2/1969, Giáp lại mở cuộc tiến công vào dịp Tết. Ông không tạo được thế bất ngờ như cuộc tiến công năm ngoái. Sau ba tuần, ông hủy bỏ cuộc tiến công. Trên 1.100 lính Mỹ thiệt mạng.

Bực bội vì không đạt được tiến bộ trong thương lượng và bị kích động bởi cuộc tiến công Tết 1969, ngày 18/3/1969, Nixon ra lệnh ném bom không công bố vùng đất thánh của Việt Cộng trên lãnh thổ Campuchia. Đó là Cuộc hành quân Menu, trở thành cuộc chiến tranh bí mật của Nixon và Kissinger. Giai đoạn ném bom lén lút này kéo dài đến tháng 3/1970 và sau đó lại tiếp tục cho đến năm 1973. Đựơc phép của Tổng thống, không lực Hoa Kỳ dùng máy bay ném bom chiến lược B-52 thả gần 550.000 tấn chất nổ trên lãnh thổ Campuchia. Chính phủ của Hoàng thân Norodom Sihanouk đã cố gắng trong nhiều năm giữ trung lập nhưng bị sức ép như thế, nên đã rơi vào tình trạng không ổn định. Nhân dịp Sihanouk thăm Paris, một trong những tướng lĩnh của ông là Lon Nol làm đảo chính ngày 18/3/1970, lên thay ông đứng đầu nhà nước. 5 năm sau, ngày 17/4/1975, đến lượt chính phủ Lon Nol bị Polpot – thủ lĩnh của Khmer Đỏ – lật đổ. Khi lực lượng Polpot vào thủ đô Pnompenh, Khmer Đỏ tiến hành cuộc diệt chủng, tàn sát trên hai triệu người(1) trong dân số gần tám triệu người Campuchia.

Trong cuộc họp thượng đỉnh gặp Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Midway ngày 8/6/1969, Nixon tuyên bố chương trình Việt Nam hóa chiến tranh thực hiện có kết quả. Bây giờ ông có thể rút khỏi Việt Nam một sư đoàn nặng gồm 25.000 người. Đến cuối tháng 8 năm đó, số binh lính Mỹ may mắn của Sư đoàn bộ binh số 9 bắt đầu trở về Mỹ.

Trong tháng 6 và 7, Võ Nguyên Giáp đọc hai bài diễn văn. Bài thứ nhất đọc trong Hội nghị cán bộ Phòng không - Không quân. Bài thứ hai đọc trước các cán bộ Quân khu 3. Võ Nguyên Giáp khen ngợi chiến tranh nhân dân và các cuộc giao chiến làm tiêu hao quân địch. Ông nói: “Đương nhiên “nhiệm vụ thiêng liêng” của miền Bắc là giải phóng phần phía nam của Tổ quốc thân yêu, nhưng phải làm từ từ theo các cách đánh của chiến tranh nhân dân, mọi lực lượng nhỏ hơn đánh một kẻ thù siêu cường, sử dụng vũ khí thông thường chống lại vũ khí hiện đại nhất”. Miền Bắc sẽ là hậu phương lớn. Miền Nam sẽ là tiền tuyến lớn. Thắng lợi chắc chắn sẽ giành được nếu “các lực lượng ưu tú” (chủ lực) áp dụng một chiến thuật khôn khéo. Nhưng ông muốn trên hết là cán bộ phải có “đạo đức cách mạng”, có trình độ chiến thuật và kỹ thuật cao và các cán bộ chỉ huy phải có khả năng chỉ huy bộ đội chiến đấu có hiệu quả.

Lúc này, sức khỏe của Hồ Chí Minh suy giảm nhiều. Suốt năm 1969, nhiều cơn đau tim xuất hiện nhưng không ngăn cản ông quan tâm sát sao đến tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền “bù nhìn” ở miền Nam. Ông mất ngày 2/9/1969. Một tuần sau lễ truy điệu trọng thể được tổ chức tại Quảng trường Ba Đình. Hàng vạn người dân khóc nức nở đến vĩnh biệt ông. Ngồi trên lễ đài, các đồng chí lâu năm của ông: Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp không cầm được nước mắt.

Sau đám tang, một chính thể tam hùng được thiết lập: Lê Duẩn kiểm soát các công việc nội bộ đảng, Phạm Văn Đồng chủ trì công việc ngoại giao và Võ Nguyên Giáp phụ trách mọi công việc liên quan đến quân sự và quốc phòng.

Võ Nguyên Giáp tiếp tục chính sách giảm bớt dính líu vào chiến trường miền Nam. Cho đến cuối năm 1969, ông chỉ cho đánh những trận nhỏ với đơn vị nhỏ, chỉ phản kích lẻ tẻ vào những cơ sở và vị trí đối phương. Mục đích là kéo dài chiến tranh, ngăn cản công cuộc Việt Nam hóa chiến tranh và công tác bình định nông thôn, gây nên những tổn thất cho quân đội Mỹ và duy trì áp lực với quân đội Sài Gòn. Chính sách này không đòi hỏi những trận giao chiến lớn chống quân đội Mỹ. Thực ra đến tháng 12/1969, Võ Nguyên Giáp khẳng định miền Bắc đã coi thường những nguyên tắc căn bản của chiến tranh nhân dân và tuyên bố cần phải sửa chữa thiếu sót đó ngay cả nếu buộc phải tạm thời trở về phòng ngự.

Võ Nguyên Giáp tin chắc rằng đó là cách tiếp cận đúng đắn. Trả lời nhà báo Hungari, Ferenc Hegedus, ông nói: “Đảng chúng tôi ra sức giáo dục nhân dân miền Nam hiểu rằng họ phải dựa vào sức mình là chính trong cuộc đấu tranh giải phóng”. Ông nói thêm rằng: “Nếu nhân dân nổi dậy chiến đấu kiên quyết và có động cơ chính trị rõ ràng, nhân dân có thể bảo vệ tự do độc lập và những quyền thiêng liêng của mình. Nhân dân hoàn toàn có thể đánh bại bất cứ kẻ thù nào, dù là đế quốc Mỹ”.

Võ Nguyên Giáp tập trung vào những cố gắng chiến tranh với một chất lượng cao hơn, dùng các đơn vị xung kích cơ động hơn là dựa vào đông đảo các lực lượng tham chiến như trước đây. Võ Nguyên Giáp cho rằng: “Đó là phương châm tác chiến hợp lý nhất vì thiếu quân số ở miền Bắc và do so sánh lực lượng miền Nam có lợi về quân số cho Mỹ. Trong một thời gian, Trung ương Cục miền Nam và Mặt trận Dân tộc giải phóng sẽ phải chiến đấu một mình”.

1. Theo dịch giả người Pháp Juliette Mincer, con số mười triệu người bị giết là gần với sự thật hơn cả (ND).

<<Chương 18 “Chỉ có các triết gia mới nói đến quy luật” Chương 20 “Sông có thể cạn, núi có thể mòn” >>

Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Cờ lau dựng nước

Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt