Chiến thắng bằng mọi giá

Chương 8 “Chúng tôi sẽ phải dùng đến vũ khí”

<<Chương 7 “Hoan nghênh các bạn người Mỹ” Chương 9 “Chúng ta phải thực tế” >>

Chương 8 “Chúng tôi sẽ phải dùng đến vũ khí”

Mặc dù Việt Minh rất hy vọng trông chờ, nhưng không một nước nào trong phe Đồng minh muốn thấy Chính phủ lâm thời Việt Nam tiếp nhận sự đầu hàng và tước vũ khí của quân đội Nhật ở Việt Nam. Nhưng có thể đơn giản hơn thế. Có lẽ trong các nước Đồng minh, chỉ có một số người biết đến sự tồn tại của Việt Minh và có thể là họ cũng quyết liệt phản đối mọi sự nổi dậy của người bản xứ ở Đông Nam Á hay bất cứ nơi nào trên hành tinh. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước Đồng minh họp tại Potsdam từ ngày 17/7 đến 2/8/1945, tham gia hội nghị có đại diện của ba quốc gia Liên Xô - Anh - Mỹ. Harry S. Truman chấp nhận phương án để quân đội Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch giải giáp quân Nhật ở Bắc Đông Dương từ vĩ tuyến 16 trở ra. Còn từ vĩ tuyến 17 trở vào, quân Anh từ Miến Điện sẽ đến để đảm nhận nhiệm vụ đó. Những toán quân đầu tiên của Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch dưới sự chỉ huy của tướng Lư Hán đã đến Hà Nội vào ngày 22/8.

Võ Nguyên Giáp không có chút ấn tượng nào về sự có mặt của đội quân ô hợp đó: “Mặt béo phị vàng vọt, điệu bộ ngơ ngác. Quân phục vàng như nghệ, rách rưới, lôi thôi, trông rất kinh! Chúng gồng gánh, khệ nệ những bồ những sọt không biết đựng những đồ phế thải gì không biết. Một số đem theo cả vợ con. Nhiều tên chân cẳng phù thũng không nhấc nổi. Dân gian gọi chúng là “Tàu phù”. Chúng xuất hiện như những vết nhơ trên đường phố”.

Võ Nguyên Giáp hiểu rằng không có gì phải sợ hãi thứ quân đội Tàu Tưởng đó, mặc dù báo chí Quốc dân Đảng Trung Hoa la lối om sòm là chúng có tới 300 sư đoàn lúc chiến tranh chấm dứt. Nhưng theo ước tính chỉ có 5 sư đoàn là những đơn vị chiến đấu có hiệu quả thực sự. Tuy nhiên, Võ Nguyên Giáp lo ngại vì chúng “khét tiếng chống cộng”, muốn tiêu diệt Việt Minh và xâm chiếm Việt Nam.

Hồ Chí Minh cố gắng xoa dịu Quốc dân Đảng Trung Hoa để chúng bớt hung hăng, chống phá nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Biết chúng đứng đằng sau và ủng hộ các nhóm như Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội, nên Hồ Chí Minh dành cho họ một số ghế trong Chính phủ lâm thời với hy vọng hạn chế tối đa can thiệp của họ vào công việc của đất nước. Hồ Chí Minh biết nhóm Con Nai và Patti nói chung tán thành hành động của mình. Nhưng không phải là người Mỹ nào cũng có quan điểm như vậy. Đó là tướng Philip Gallagher, cố vấn của tướng Lư Hán. Ngày 20/9 Gallagher điện về Mỹ nói “Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng lâu năm… một sản phẩm của Matxcova, một người cộng sản.”

Mặc dù gần 20 vạn quân Quốc dân Đảng Trung Hoa cuối cùng cũng được trải ra đóng khắp nơi trên miền Bắc, nhưng tất cả đám quân ấy, từ tướng Lư Hán đến đám lính quèn chỉ lo buôn bán kiếm lời hơn là để lập lại nền thống trị của người Pháp. Nhiều quân nhân Trung Hoa bán vũ khí cho Việt Minh, trong khi đó một số khác lại tiến hành cướp phá một cách có hệ thống. Chúng cướp đi mọi thứ của cải không niêm phong từ thiết bị y tế đến ngói, đồ gỗ. Chúng chất đầy lên xe bò hay xe tải tịch thu được của Nhật. Nếu không có phương tiện chuyên chở, chúng tự mang vác trên lưng. Đại úy Lucien Conein của OSS đã miêu tả: “Những người lính Trung Quốc tàn phá đất nước như một đội quân châu chấu phá hoại mùa màng”. Những ai còn giữ kỷ luật được thì nhanh chóng giải giáp quân Nhật và đưa họ về nước. Sáng sớm ngày 2/9/1945, dân chúng Hà Nội náo động. Cả thành phố đỏ rực màu cờ. Cờ trên nóc nhà cao tầng, ở các công sở và nhà dân, trên ban công, trên cành cây, treo cao trên các cột bên bờ hồ. Các loại đèn lồng đỏ lửa. Các khung cửa, biển hiệu trang hoàng hoa đỏ. Khẩu hiệu biểu ngữ bằng vải giăng ngang đường với những dòng chữ bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Hoa và tiếng Nga “Ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”, “Hoan nghênh phái bộ Đồng minh”, “Độc lập hay là chết”, “Ủng hộ Chính phủ lâm thời”.

Các nhà máy, các cửa hàng, các chợ lớn nhỏ đều đóng cửa. Việc sản xuất và buôn bán trong thành phố đều ngưng lại. Người dân thành phố kể cả ở ngoại thành, già, trẻ, gái, trai đều phấn khởi tiến về Quảng trường Ba Đình. Các thành viên các đội tự vệ tay kiếm, tay đao vác cả giáo mác đi bảo vệ các đoàn người diễu hành. Một số người không lấy đâu ra vũ khí đã vào chùa lấy các biểu tượng mã tấu, đại đao bằng gỗ sơn son thếp vàng hàng ngày vẫn cắm vào các giá để tượng trưng cho uy nghi của thần linh, nối thêm cán dài để đi theo đoàn người. Họ giương cao hò reo, chẳng khác nào các đội quân La Mã xưa kia hùng dũng bước sau các biểu tượng đại bàng trên đường ra trận.

Những đứa trẻ ồn ào và phấn khích tay cầm cờ, chen chân trong đám người đông nghịt. Phụ nữ nông thôn quấn khăn vàng, thắt lưng xanh, quần túm gấu, các công nhân nhà máy xí nghiệp quần xanh, sơ mi trắng, hàng ngũ chỉnh tề nhất. Một người vẫy tay ra hiệu, các cảm tình viên của Việt Minh huýt còi đánh trống làm nhịp, chân dập mạnh vừa đi vừa hát những bài ca cách mạng. Các tăng ni Phật tử, các thầy tu Công giáo rời khỏi nơi tôn nghiêm cùng bước theo, ngỡ ngàng trước không khí ồn ào, lộn xộn của đám đông. ánh nắng mùa thu rực rỡ bao trùm khắp quảng trường. Một đại đội danh dự đứng nghiêm trang trên lễ đài vừa được dựng vội vã. Ước tính số người tham dự mít tinh hôm đó chắc hẳn phải lên tới con số một triệu.

Ông Nguyễn Đình Tú giải thích: Bấy giờ, ai ai cũng nghĩ rằng người có cơ hội giành được thắng lợi trong đấu tranh cho tự do chính là Hồ Chí Minh. Tuyên truyền của Việt Minh đã gây được tác động lớn đối với những ai trước đây cho rằng phong trào đã có sự tranh giành đấu đá nội bộ để thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam. Chính Việt Minh đã nói với tất cả mọi người, chứ không phải một nhóm nhỏ nào, thuyết phục tất cả mọi người rằng Việt Minh đấu tranh để được công bằng hơn. Cách giải thích “đơn giản hóa” đó của Việt Minh đã xâm nhập vào đa số, tranh thủ được sự ủng hộ hoàn toàn.

Lucien Conein ngồi trong quầy rượu của khách sạn Metropole, bình tĩnh quan sát quang cảnh náo động ngoài phố và ngay sau đó đã bình phẩm không úp mở: “Thật quá trời! Tôi phải ngồi trong khách sạn để khỏi bị chen lấn xô đẩy trong đám đông đến hàng chục vạn người! Thật không thể tưởng tượng được! Tất cả mọi người đều đổ ra đường. Họ có những người “nhạc trưởng”, dẫn dắt các nhóm cổ vũ. Người dân không biết hôm đó họ đã tạo ra một không khí cuồng nhiệt, say sưa đến lạ lùng. Có một cái gì đã xảy ra và người ta không muốn để tuột mất. Có ai đó đọc một bài phát biểu dài nhưng họ không biết người đó là ai. Những người “nhạc trưởng” nói với họ lúc nào ra hiệu thì vỗ tay hoan hô”.

Trong tiếng hoan hô vang dậy của đám đông, các quan khách bước lên lễ đài. Hồ Chí Minh được mọi người đặc biệt chú ý. Đó là một người vóc dáng mảnh khảnh, vầng trán cao, cặp mắt sáng ngời, chòm râu thưa thớt, chân đi dép cao su trắng. Tiếng loa phóng thanh giới thiệu ông là người giải phóng dân tộc. Trong khi đám đông hô vang “Độc lập” kéo dài, Hồ Chí Minh tươi cười bước ra đứng trước mặt mọi người. Ông khoát tay yêu cầu mọi người im lặng. Ông nói đặc giọng xứ Nghệ quê hương. Với giọng nói rõ ràng, chính xác, bình tĩnh và ấm áp, ông đọc bản Tuyên ngôn độc lập mà ông đã viết trước đó: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không thể xâm phạm được. Trong những quyền đó, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Bỗng nhiên ông dừng lại, hỏi: “Đồng bào nghe tôi nói có rõ không?”. Cả triệu giọng nói đồng thanh vang lên như sấm: “Có”. Ông lại đọc tiếp: “Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ suy rộng ra câu ấy có nghĩa là tất cả các dân tộc trên trái đất đều sinh ra bình đẳng. Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do […]. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được…”

Khi Hồ Chí Minh đọc xong bản Tuyên ngôn độc lập và ngồi xuống, tiếng hoan hô reo hò lại nổi lên. Sau đó Võ Nguyên Giáp phát biểu. Bài phát biểu của ông dài hơn của Hồ Chí Minh, miêu tả những thế lực hiện đang có và những mối nguy hiểm mà chính phủ phải đương đầu. Những từ ngữ sôi nổi ca ngợi nền độc lập xen lẫn những căn dặn phải đề phòng âm mưu phá hoại. Cuộc cách mạng thành công nhanh chóng đến bất ngờ mà tổ chức của Việt Minh lại chưa được thử thách. Sự chia rẽ về chính trị và xã hội có thể làm quá trình phát triển gặp khó khăn. Vì vậy, Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh đến việc tăng cường đoàn kết, nhất trí và cần phải giảm bớt những việc thái quá. Ông nói: “Người Pháp đang lăm le trở lại cướp đất nước ta bằng vũ lực […]. Nếu điều đình không đi đến kết quả, chúng ta lại phải cầm vũ khí để chống lại kẻ xâm lược […].” Ông tuyên bố: “Nước Mỹ đã giúp đỡ chúng ta trong cuộc đấu tranh giành độc lập, đã cùng chiến đấu với chúng ta chống phát xít Nhật, vì vậy nước Mỹ là đồng minh của chúng ta”.

Buổi lễ kết thúc bằng lễ tuyên thệ: “Chúng tôi, toàn thể dân tộc Việt Nam nhất trí xin thề: Ủng hộ Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng tôi xin thề sát cánh với Chính phủ, giữ gìn nền độc lập hoàn toàn của Tổ quốc và phản đối mọi âm mưu xâm lược của nước ngoài dù phải hy sinh tính mạng.

Nếu Pháp trở lại xâm lược một lần nữa, chúng tôi xin thề:

Không đi lính cho Pháp!

Không hợp tác với Pháp!

Không bán lương thực cho Pháp!

Không dẫn đường cho Pháp!”

Triệu người như một, cất vang lời thề: “Xin thề!”

Cùng ngày, cách Ba Đình hàng nghìn cây số, chính quyền lâm thời Nam Bộ do Trần Văn Giàu tổ chức ở Sài Gòn đã tiến hành một cuộc mít tinh tương tự, đáng lẽ phải khớp với lễ Tuyên bố độc lập ở Hà Nội. Khi cuộc mít tinh kết thúc, đồng bào Sài Gòn tỏa ra trên các đường phố để trở về nhà thì những người Pháp nấp sau Nhà thờ Đức Bà ở giữa thành phố nổ súng vào đám đông làm 87 người chết và bị thương. Các nhóm tự vệ Việt Minh đã ra sức chống trả. Cuộc chiến tranh Đông Dương chưa bùng nổ mà đã có những vụ ẩu đả, nổ súng xảy ra. Chính phủ lâm thời của Hồ Chí Minh họp phiên đầu tiên vào sáng 3/9 trong căn phòng của Dinh Thống sứ cũ. Trong khi mọi người chờ Hồ Chí Minh tới, Võ Nguyên Giáp nghĩ đến câu nói của Lenin: “Giành chính quyền đã khó, giữ được chính quyền còn khó hơn”. Võ Nguyên Giáp phát biểu kiểm điểm lại các sự kiện mới nhất gần đây bằng những lời lẽ đôi khi đượm chút trữ tình.

Cuộc cách mạng cuối cùng đã nổ ra, Võ Nguyên Giáp nghĩ: “Những quyền mới giành được đảm bảo tự do và dân chủ giống như hạt mưa rào trên cánh đồng khô cháy lâu ngày vì hạn hán. Nhân dân ta tiếp nhận những quyền ấy chẳng khác nào người đang khát được cho uống nước, người đang đói được cho ăn”. Trước đây, dưới nền cai trị của thực dân Pháp, chỉ một việc nhặt truyền đơn, hô khẩu hiệu cũng đủ bị bỏ tù. Dưới ách chiếm đóng của Pháp, tìm thấy một con dao găm trong nhà trong một cuộc khám xét cũng đủ tạo cớ để tàn sát cả gia đình. “Thế mà kìa”, Võ Nguyên Giáp nói tiếp, vẻ mơ mộng, “cờ đỏ Việt Minh bay phấp phới trên mặt tiền của mọi nhà. Người dân đi trong phố có thể ngẩng cao đầu, có thể tha hồ hát to các bài ca cách mạng. Dân quân đặt trạm canh gác, mang giáo mác, đứng gác trông rất oai nghiêm mà không ai phải sợ hãi. Đất nước nay đã thuộc về người dân”.

Tuy nhiên, những quyền đã giành được còn mong manh lắm. Chiếm được vài công sở chứ chưa có kinh nghiệm giám sát, điều hành. Tỷ lệ người mù chữ còn chiếm 95% dân số đến tuổi đi học. Người Pháp xây dựng nhà tù nhiều hơn trường học. Nạn thất nghiệp tăng nhanh. Dự trữ thóc gạo không có. Đôi khi người dân chỉ có gạo tấm đủ để ăn, nhiều người chết đói. Dịch tả đã xảy ra ở một số nơi. Chúng ta không có tiền. Chính phủ mới đang phá sản. Trong ngân khố chỉ có 1.250.000 đồng bạc đa số là tiền giấy quá cũ, rách nát, phát hành không biết từ bao giờ hoặc tiền kim loại hỏng.

Tài chính suy sụp như thế và do yêu cầu của tướng Lư Hán, Hồ Chí Minh cần phải có cách thu được tiền và thu nhanh. Tuy còn ngập ngừng nhưng Hồ Chí Minh quyết định tổ chức Tuần lễ vàng từ ngày 16 đến 22/9. Phạm Văn Đồng công khai kêu gọi nhân dân đóng góp vào qũy chính phủ mới và kết quả thu được còn nghèo nàn. Chỉ khi chính Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cả nước thì kế hoạch mới được bắt đầu thực hiện. Nhân dân ở khắp nơi tụ tập ở các điểm quyên góp, mang vàng, bạc, nhẫn cưới, hoa tai, dây chuyền vàng, đồng hồ hay đá quý để quyên góp cho chính phủ. Sau này Võ Nguyên Giáp viết, chỉ trong mấy ngày Việt Minh đã quyên được 20 triệu đồng và 370 kg vàng. Nhiều người đem cả vật lưu niệm quý giá của họ để bỏ vào qũy Tuần lễ vàng. Một cụ bà 80 tuổi đã hiến tất cả của cải tiết kiệm cả đời cho chính phủ: Một nén vàng gói trong vuông lụa đỏ.

Nguyễn Đình Tú, một người theo chủ nghĩa quốc gia lại nhìn những ngày đó dưới một góc độ khác: “Việt Minh rất dễ làm những lời tuyên truyền trở nên hiệu quả. Họ chỉ nói đến công bằng xã hội, đến phân biệt da vàng với da trắng. Rất nhiều người nghe và tin luận điệu của họ. Nông dân đã quyên góp cho chính phủ khối lượng vàng rất lớn vì họ là những người yêu nước thật sự. Đa số người dân nghĩ rằng độc lập đã giành được rồi, mọi người phải tham gia xây dựng đất nước và bảo vệ độc lập.”

Nhiều đội quân nước ngoài, một lần nữa kéo vào lăm le xâm lược đất nước trong khi Chính phủ lâm thời chưa đủ sức ngăn chặn chúng. Trước cách mạng Tháng Tám, quân đội Nhật chỉ có sáu vạn tên, nhưng cũng chỉ chiếm đóng đất nước trong một thời gian. Còn bây giờ Chính phủ lâm thời vừa ra mắt được mấy ngày, thì 20 vạn quân Tưởng đã tràn vào miền Bắc, 5.000 quân Anh - Ấn cùng với hàng chục nghìn binh lính Pháp bám theo đã đổ bộ vào miền Nam đóng chật các cảng biển. Hàng vạn lính thực dân thất trận ở Đông Dương trước đây, nay được trang bị lại vũ khí. Những tên chạy sang Trung Quốc nay trở lại. Từ trước tới nay, chưa bao giờ trên đất nước Việt Nam lại có nhiều quân đội nước ngoài đến thế và cũng chưa bao giờ như lúc này người Việt Nam phải đương đầu với những đội quân đông đảo và trang bị mạnh đến thế!

Khi Hồ Chí Minh đến dự cuộc họp đầu tiên của chính phủ, ông khẩn trương bắt tay làm việc với các thành viên trong chính phủ. Sau buổi họp đầu tiên đó, còn nhiều buổi họp tương tự. Chính phủ Việt Minh triển khai chương trình củng cố và cải cách của mình. Bắt đầu là chiến dịch chống nạn mù chữ, chống giặc dốt, đẩy mạnh tăng gia sản xuất nông nghiệp để chống giặc đói. Người ta yêu cầu mỗi người cứ mười ngày lại nhịn một bữa, gạo quyên góp được sẽ phân phát cho người đói. Các địa chủ được yêu cầu giảm 25% địa tô và xóa bỏ nhiều món nợ truyền từ đời này sang đời khác. Thuế thân, thuế chợ, thuế đò được bãi bỏ. Nghiêm cấm triệt để việc hút thuốc phiện. Chính phủ động viên mọi người làm việc quên mình, thực hành tiết kiệm, giữ đạo đức thanh liêm và chính trực gói gọn trong bốn chữ: “Cần, kiệm, liêm, chính”. Xóa bỏ chế độ quan lại, Chính phủ mới chuẩn bị Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức trong vòng hai tháng để bầu Quốc hội bằng phổ thông đầu phiếu. Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội do Tàu Tưởng giật dây phản đối kịch liệt. Võ Nguyên Giáp nhiều lần kiên trì giải thích cho những người lãnh đạo hai đảng này sự cấp bách của Tổng tuyển cử là tuyệt đối cần thiết.

Quân Anh bắt đầu đổ bộ vào miền Nam từ ngày 11/9. Chỉ huy là tướng Douglas Gracey hai ngày sau mới đến bằng máy bay. Mặc dù đã nhận lệnh của Huân tước Louis Mountbatten là không được làm gì ngoài việc giải giáp quân Nhật, nhưng Gracey vẫn ủng hộ việc lập lại sự kiểm soát của Pháp và quyết định áp đặt bằng cách giải thích riêng của mình về biện pháp và trật tự đối với những người ông ta gọi là những phần tử gây rối ở miền Nam. Ông ta ra lệnh cấm mọi người không ai được có vũ khí. Nếu ai vi phạm lệnh này có thể bị tử hình. Không những ông ta dùng lực lượng của mình để thiết quân luật mà ông còn cho thả 1.400 lính Pháp trước đây bị Nhật bắt làm tù binh trong đảo chính ngày 9/3/1945 và còn trang bị vũ khí cho họ. Gracey còn sử dụng cả lính Nhật tại chỗ nhằm đập tan Chính quyền lâm thời của Việt Minh ở miền Nam để lập lại sự cai trị của người Pháp.

Võ Nguyên Giáp đã dự đoán trước mọi diễn biến ở miền Nam nhưng vì khoảng cách quá xa nên sự chỉ đạo không thể sát sao và có hiệu quả. Tại miền Bắc, ông đã có quá nhiều việc phải giải quyết. Vì vậy, lực lượng Việt Minh ở miền Nam phải chiến đấu đơn độc chống Pháp. Leclerc khẳng định ông sẽ bình định được miền Nam trong 10 tuần lễ. Tuy nhiên, có nhiều việc Võ Nguyên Giáp vẫn có thể làm được cho miền Nam. Ông thuyết phục Ban Chấp hành Trung ương chi viện cho miền Nam. Được Trung ương đồng ý, Võ Nguyên Giáp tổ chức các đơn vị Nam tiến. Các đơn vị này đã đến, như ông nói, “vừa đúng lúc”. Mục tiêu của họ là giữ cho được các vị trí chiến lược ở tuyến phòng thủ đầu tiên của vùng đông bắc Sài Gòn. Võ Nguyên Giáp nhớ lại: Các đơn vị Nam tiến chiến đấu rất dũng cảm, đã cầm chân quân Pháp một tháng liền và gây cho chúng những tổn thất nặng nề. Ngay cả khi Việt Minh bị đánh bật khỏi nhiều thành phố và làng mạc ở Trung Nam Bộ và Nam Bộ thì các chiến sĩ Nam tiến vẫn tiếp tục giữ được phần lớn nông thôn miền Nam. Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất vừa mới bắt đầu và sẽ phải kéo dài đến tháng 5/1954. Ngay từ đầu, máu người Mỹ đã chảy. Ngày 26/9/1945 A. Peter Dewey, chỉ huy của OSS ở Sài Gòn đã chết trong một trận phục kích.

Trong những ngày cuối tháng 9 tại Hà Nội, dân chúng tập trung dưới loa phóng thanh lo lắng theo dõi diễn biến chiến sự ở miền Nam. Tuy nhiên, họ còn phải tiến hành cuộc đấu tranh của chính họ, lúc này chưa phải là chống Pháp mà là chống quân Quốc dân Đảng Trung Hoa đang có mặt ở Bắc Kỳ và ngày càng can thiệp sâu hơn vào nội tình xứ này. Quân Tàu Tưởng thường xuyên xả súng vào thường dân người Việt hoặc gây ra các vụ bạo loạn, gây mất trật tự trị an.

Một hôm Võ Nguyên Giáp phải đi công tác ở Hà Đông. Tất cả các xe cộ đi lại ở miền Bắc đều phải có giấy thông hành có chữ ký của Bộ chỉ huy Trung Hoa. Tuy nhiên, một đội tuần tra lưu động, một trạm gác của quân Tưởng cũng có thể ngang nhiên chặn xe để khám xét. Xe của Võ Nguyên Giáp bị chặn lại ở Ngã Tư Sở mặc dù có giấy phép đi lại, có dấu son đỏ chói của Bộ chỉ huy quân Tưởng dán ở trên kính đằng trước xe. Lính Tưởng bắt mọi người ra khỏi xe và tiến hành khám xét rất thô bạo. Chúng lật cả đệm xe và tìm thấy một khẩu súng của người lính bảo vệ Võ Nguyên Giáp. Chúng giữ xe và đưa hai người Việt Nam trong đó có Võ Nguyên Giáp đến trạm gác để xét hỏi. Võ Nguyên Giáp khai mình là nhân viên của phòng liên lạc Việt - Trung nhưng vẫn bị giữ hai tiếng đồng hồ mới được thả. Nhưng không phải là một việc đơn lẻ, Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Có thể nói đêm nào người ta cũng nhận được thư của các vị tướng lĩnh hoặc sĩ quan của Tưởng Giới Thạch… đòi hỏi, yêu sách điều này điều khác, thậm chí còn uy hiếp dọa nạt.”

Điều nguy hiểm nhất mà Việt Minh phải đối mặt trong thời gian quân Tưởng đóng trên đất Việt Nam là hai đảng Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội được quân Tưởng hậu thuẫn.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản cho rằng quyền lực có thể tuột khỏi tay nếu Việt Nam Quốc dân Đảng hay Đồng minh hội thực sự đứng chân được trong nhân dân. Quyền lực của Việt Minh cho đến lúc này vẫn chưa thật sự vững vàng và nguy cơ đi chệch hướng chính trị có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Vì vậy, quân đội Trung Hoa tiến vào đến đâu trên lãnh thổ ở miền Bắc thì chúng giải tán các ủy ban địa phương của Việt Minh ở đó và giao cho các đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội quyền quản lý hành chính. Tình hình đó khiến Việt Minh lo ngại. Võ Nguyên Giáp kể lại: “Bọn người đó sống ở hải ngoại, từ lâu đã không có tiếp xúc gì với trong nước. Chúng đội lốt những người yêu nước theo chủ nghĩa quốc gia nhưng chính là một nhóm phản động lệ thuộc vào Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch và sức mạnh quân sự của bọn này chỉ để nhặt nhạnh chút cơm thừa, canh cặn”. Võ Nguyên Giáp dùng những từ nửa mỉa mai chua chát: “Chúng tôi nhận rõ tham vọng vô độ của Quốc dân Đảng. Đó là kẻ thù không đội trời chung với cách mạng. Chúng tôi phải ngăn cản chúng lật đổ chúng tôi và thay thế chúng tôi bằng những tên tay sai hèn hạ”.

Người bạn mới của Võ Nguyên Giáp, thiếu tá Al Patti trong nhóm OSS ở Côn Minh cũng có cùng quan điểm như trên. Patti thảo luận với các thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng cùng Đồng minh hội và thấy chúng tuyệt nhiên không có một ý tưởng nào về điều chúng định làm để đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Chúng chỉ nói “đảm nhận quyền lực, hay chia sẻ quyền lực với Việt Minh” nhưng không một ai trong bọn chúng tỏ ra có một khái niệm nào về công việc mình sẽ làm. Patti nói: “Chúng là những kẻ lạc hướng về chính trị có lẽ vì sống quá lâu ở Trung Quốc”. Ông cũng nghĩ những nhóm người này hoạt động chủ yếu vì động cơ tham vọng về quyền lực và lợi ích cá nhân.

Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội nhanh chóng thiết lập trụ sở trung ương của chúng ở Hà Nội. Theo Võ Nguyên Giáp, tại đây chúng tập hợp những phần tử phản động, bọn cướp của, giết người, trấn lột, trộm cắp… “Tớ bắt chước thầy hành động như một bọn thổ phỉ. Chúng ra báo với những cái tên như Việt Nam, Liên minh, Hiện thực, bênh vực lý tưởng của chúng bằng những lý lẽ trâng tráo.” Điều tệ hại nhất theo quan điểm của Việt Minh là người Trung Quốc gây sức ép với Chính phủ lâm thời để cho đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội nắm những ghế quan trọng trong Chính phủ.

Những người theo chủ nghĩa quốc gia tất nhiên nhìn nhận sự việc theo một cách khác. Một người trong số đó là Nguyễn Duy Thanh sau này viết lại rằng những người lãnh đạo các đảng quốc gia có chính kiến khác nhau đều tập hợp xung quanh Hồ Chí Minh, bởi vì theo ông Thanh: “Chúng tôi cùng đoàn kết với nhau để có thêm sức mạnh thúc đẩy sự nghiệp chung là nền độc lập của đất nước. Chúng tôi biết rõ Hồ Chí Minh và Đảng của ông là những người cộng sản lâu năm. Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng họ trước hết và trên hết luôn đặt sự nghiệp của đất nước lên trên lợi ích đảng phái.”

Ngày 8/9 Chính phủ lâm thời quyết định trong vòng hai tháng sẽ tổ chức Tổng tuyển cử. Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội phản đối tuyển cử và yêu cầu Trung Quốc ủng hộ. Về phần mình, Việt Minh lợi dụng thái độ ngập ngừng đó để giới thiệu đối thủ của họ trong những điều kiện bất lợi nhất. Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: “Chúng tôi không ngừng nhắc nhở những người lãnh đạo hai đảng đó hiểu rằng Tổng tuyển cử là cần thiết và nhất thiết phải được tổ chức. Chúng tôi cũng bày tỏ ý muốn đoàn kết tất cả các lực lượng để xây dựng đất nước và ủng hộ Nam Bộ kháng chiến.” Để xóa bỏ mọi sự tức giận của quân Tàu Tưởng, Hồ Chí Minh nhượng bộ. Ngày 11/11/1945, Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương và thành lập Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác để tập hợp những ai quan tâm nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Mấy ngày sau ông triệu tập một hội nghị đại biểu toàn thể của các đảng phái. Đại biểu Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội tham gia hội nghị và chấp nhận chấm dứt tố cáo lẫn nhau trên báo chí, thống nhất quân sự và thành lập chính phủ liên hiệp.

Chính phủ liên hiệp chỉ tồn tại khi tổ chức Tổng tuyển cử, bầu Quốc hội để lập ra chính phủ chính thức. Hồ Chí Minh hứa sẽ để 70 ghế trong Quốc hội cho Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội. Chính phủ này sẽ tổ chức Tổng tuyển cử triệu tập Quốc hội, kết quả của cuộc Tổng tuyển cử. Trong khi chờ đợi Tổng tuyển cử, chính phủ này sẽ thống nhất quân đội quốc gia. Ngày 19/12, chính phủ tuyên bố sẽ tổ chức Tổng tuyển cử vào đúng ngày 6/1/1946. Mấy ngày sau đó có người phàn nàn trong chính phủ có các đại biểu Việt Nam Quốc dân đảng và Đồng minh hội, Hồ Chí Minh trả lời: “Phân không đáng là đồ bỏ đi hay sao? Thế mà đem bón ruộng lại làm cho lúa phát triển tốt! Vậy ta có nên dùng không?”.

Cuộc tranh đua giữa các đảng phái chính trị đã chuyển từ cãi vã sang đấu lý công khai, sang các vụ bắt cóc thủ tiêu lẫn nhau. Cuối mùa thu, đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng đã bắt cóc Võ Nguyên Giáp và Bộ trưởng Tuyên truyền Trần Huy Liệu, giam giữ trong ba tuần lễ. Trong thương lượng để giải thoát họ, Hồ Chí Minh phải chấp nhận giải nhiệm chức vụ của Võ Nguyên Giáp và Trần Huy Liệu trong chính phủ lâm thời. Vì vậy, Võ Nguyên Giáp thôi chức Bộ trưởng và làm Thứ trưởng Quốc phòng bên cạnh Vũ Hồng Khanh. Tuy nhiên, với chức vụ này Võ Nguyên Giáp tiếp tục kiểm soát cảnh sát quân sự thông qua Quân sự ủy viên hội.

Phía sau bước lùi đó, Hồ Chí Minh đã có một quyết định táo bạo. Ông Nguyễn Duy Thanh – một người theo chủ nghĩa quốc gia – đã giải thích rằng sự phân chia các bộ trong chính phủ dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ giao cho đối thủ của Việt Minh(1), tám bộ khác chia nhau giữa quốc gia và cộng sản. Nhìn bề ngoài, đó là sự phân chia công bằng nhưng trong thực tế lại khác. Đối với Bộ trưởng không cộng sản, có một Thứ trưởng cộng sản. Nếu Bộ trưởng không cộng sản trong một bộ không chịu ký một văn thư nào đó thì Thứ trưởng là cộng sản sẽ hăng hái ký ngay nếu văn thư đó có nội dung phù hợp với chủ trương cộng sản.

Chức trách các bộ cũng thay đổi. Bộ trưởng Quốc phòng chẳng hạn trở thành một người kế toán lo về chi thu tài vụ. Ông ta không được xem xét danh sách nhân sự, quân số, súng, đạn. Một vài ông Bộ trưởng mới thuộc phái quốc gia chẳng có chức trách cụ thể gì, không bao giờ được tham dự một buổi họp nào của nội các. “Bộ trưởng Bộ Công tác xã hội chẳng hạn, như lời ông Thanh, chẳng có việc gì làm, đi xin việc ở một nhà máy của Nhà nước. Sắc lệnh đầu tiên và cuối cùng của Bộ trưởng Nội vụ buộc phải ký quy định mọi công dân ra khỏi nhà phải mang theo giấy thông hành.” Rõ ràng đó không phải là cái mà Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội đòi hỏi khi nhận tham gia chính phủ liên hiệp với Việt Minh.

Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Công an nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình ngoài phố do Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội tổ chức, chấm dứt hoạt động thông tin tuyên truyền của họ trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại: “Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại […] nhưng bằng mọi giá tránh khiêu khích và đảm bảo không để xảy ra xung đột lớn”. Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng các đội tự vệ và hội viên các hội viên Cứu quốc để phá các cuộc mít tinh của các đối thủ chính trị.

Các đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội rụng rời, hốt hoảng khi thấy người Trung Hoa không giúp được gì nhiều trong việc chống lại Việt Minh như họ mong đợi. Khi lộn xộn xảy ra, lính Trung Hoa chỉ bắn chỉ thiên, bỏ công sự có bao cát che chắn, có bốt gác, xông vào giải tán cuộc mít tinh. Thế là mưu toan tập hợp dân chúng để biểu tình gây rối của Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội thất bại!

Ngay những người quốc gia cũng phải thừa nhận khiếm khuyết và non kém của họ. Ông Thanh buồn rầu nhớ lại: “Nếu không được người Trung Hoa ủng hộ, những người theo chủ nghĩa quốc gia không thể đối phó được với những người cộng sản”.

Hà Nội chuẩn bị Tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử. Để chào mừng sự kiện lớn vào ngày 6/1/1946, công nhân kẻ khẩu hiệu trên các bức tường, treo thêm cờ phấp phới tung bay khắp nơi. Xe ôtô cổ động kết cờ hoa chạy khắp phố. Con trai, con gái ăn mặc đẹp, đánh trống rộn ràng, tạo ra không khí hết sức tưng bừng náo nhiệt. Các báo chính phủ ra số đặc biệt tăng lượng phát hành, đăng tiểu sử và chương trình hành động của những người ra ứng cử.

Không khí ngày hội bao trùm các thành phố, thị trấn và khắp các làng mạc. Nhà nhà đều chăng đèn kết hoa trang trí mặt tiền. Võ Nguyên Giáp sung sướng được tin dân chúng khắp nơi đều cố gắng đi bỏ phiếu như ở tỉnh Phúc Yên có cụ già 100 tuổi đã yêu cầu đứa chắt dắt đến phòng bỏ phiếu, để tự tay bỏ lá phiếu của mình.

Người người nô nức đi bỏ phiếu ngay cả ở miền Nam và một số vùng ở miền Trung nằm dưới sự kiểm soát của Pháp. Từ Bắc chí Nam, Võ Nguyên Giáp ghi nhận “người dân tấp nập, hồ hởi đi bỏ phiếu bất chấp bom đạn napalm và súng liên thanh của địch.” Khi kiểm phiếu, Võ Nguyên Giáp đứng thứ hai trong danh sách trúng cử. Hồ Chí Minh được nhiều phiếu nhất. 98,4% cử tri đã ủng hộ Hồ Chí Minh giữ vị trí Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Có 333 đại biểu giành được đa số phiếu để thành lập Quốc hội đầu tiên.

Trong lúc những người thắng vui mừng về giá trị hiệu lực của Tổng tuyển cử thì Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội không tin rằng kết quả tổng tuyển cử là trung thực.

Ít lâu sau ngày Tổng tuyển cử, Võ Nguyên Giáp đi một chuyến thị sát ở miền Nam để truyền đạt cho cán bộ trong đó quyết định của Ban chấp hành Trung ương là kiên quyết chống Pháp trở lại. Ông hiểu rằng mặc dù hiện đang có chuyện rắc rối với Quốc dân Đảng Trung Hoa nhưng kẻ thù chính vẫn là Pháp và muốn tập trung “ngọn lửa chiến đấu vào cuộc đấu tranh chống chế độ thuộc địa Pháp. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ bị lũ lang sói, hổ báo vây quanh, phải tập hợp mọi lực lượng để tự mình chiến đấu […] để sống còn…”

Bảo Đại đề nghị được đi cùng nhưng Võ Nguyên Giáp khước từ. Tuy nhiên, không muốn làm nản lòng thiện chí của cựu hoàng, Võ Nguyên Giáp đích thân đến thăm ông tại nhà riêng và hứa: “Đi công tác về tôi xin đến thăm Ngài và sẽ báo cáo với Ngài cố vấn những điều tai nghe mắt thấy ở phía Nam…”

Võ Nguyên Giáp rời Hà Nội ngày 18/1/1946 vào một buổi chiều nắng đẹp, trên một trong những chiếc xe hiếm hoi thuộc quyền chính phủ sử dụng, đi về phía Nam để tìm hiểu tình hình. Ông tự hào về những chiến sĩ ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ đang cố gắng chống lại quân Pháp mưu toan lập lại chính quyền thuộc địa và ông nóng lòng muốn gặp họ. Cuộc chiến đấu đã trải qua hơn 100 ngày và vùng này vẫn tiếp tục trụ vững. Trong khói lửa mịt mùng, quân địch bao vây bốn phía, đồng bào của ông vẫn tiếp tục chiến đấu đôi khi chỉ có “gậy tầm vông vót nhọn làm vũ khí, với niềm tin rằng cuộc kháng chiến ở miền Nam không bị đè bẹp”. Phong trào đấu tranh vẫn được duy trì ở các thành phố, thị trấn nơi Pháp đã hoàn toàn kiểm soát được.

Võ Nguyên Giáp vui vẻ kể tiếp: “Trong những lúc Tổ quốc đang lâm nguy, còn hay mất chỉ trong gang tấc, nhân dân chúng tôi đã tìm ra những phương thức mới để đánh địch, đánh bại chúng bằng một dạng chiến tranh mới. Thành phố và thị trấn đều do chính những người xây dựng nên tự tay phá hủy để địch chỉ chiếm đóng được một đống gạch vụn, dân chúng ở các làng mạc từ chối không hợp tác với địch bằng đủ mọi cách, vườn tược nhà cửa đều hoang vắng, cầu cống bị đánh sập, đường sá bị đào bới để địch không đi lại được.”

Võ Nguyên Giáp được biết vùng nông thôn rộng lớn ở miền Nam vẫn nằm trong tay Việt Minh. Tại Đồng Tháp Mười và rừng U Minh, nhiều căn cứ kháng chiến vững chắc được xây dựng. Ông còn được biết có nhiều căn cứ kháng chiến ở ngay sát bên ngoài thành phố và thị trấn. Không có gì ngạc nhiên khi thấy Pháp luôn luôn kêu gọi chính quốc tăng viện.

Càng đi về phía Nam, Võ Nguyên Giáp càng thấy ít bóng dáng quân đội Quốc dân Đảng mà mọi người căm ghét như thường thấy ở Hà Nội. Xe càng đi trên đường số 1 càng thấy phong cảnh hai bên đường mỗi lúc lại đổi khác nhưng mùi ét xăng, tiếng còi xe khiến ông nhớ lại những chuyến đi công tác dài ngày trước đây. Càng xa thành phố, ông càng thấy đất nước tươi đẹp dưới ánh sáng độc lập, tự do. Ông vui mừng nhìn những lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên bầu trời lộng gió. Ông nhìn thấy những con tàu vẫn nhả khói trên đường sắt đi về phía Nam, trong toa chật ních bộ đội Nam tiến tăng cường cho mặt trận. Có những lúc tàu dừng lại ở ga đầu mối để lấy thêm than, thêm nước cho đầu máy, ông có dịp lại gần nói chuyện với anh em chiến sĩ các đơn vị Nam tiến. Đa số còn rất trẻ và chắc là nhiều người lần đầu tiên xa nhà ra mặt trận.

Đến Nghệ An, quê hương của Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp thấy bộ đội đang học quân sự chỉ với súng bằng gỗ, tập ném lựu đạn cầm tay. Hôm sau, ông đến tỉnh Quảng Bình, chính quê hương của ông với những thửa ruộng dài và hẹp trải dài bên những đụn cát trắng. Ông ghé thăm người thân ở Đồng Hới và hàn huyên với họ về gia đình, về đất nước cho đến tận đêm khuya.

Ngày 20/1, ông rời Quảng Bình đi Huế. Vào đến thành phố, ông ngây ngất ngắm cảnh sông Hương tuyệt đẹp với những hàng cây hai bên bờ. Ông nhìn thấy bộ đội đứng gác trước cổng Hoàng thành, bên bức tường rêu phong cổ kính. Ông bình luận: “Huế hiện tại là hậu phương trực tiếp của nhiều mặt trận phía tây như mặt trận Lào, mặt trận Trung Trung Bộ và Nam Trung Bộ”. Võ Nguyên Giáp lưu lại đó hai ngày trong tổng hành dinh của Việt Minh ở miền Trung, trao đổi ý kiến với tướng Nguyễn Chí Thanh về công việc sắp tới. Hai người còn tán gẫu về những đổi thay của đất nước.

Võ Nguyên Giáp tiếp tục cuộc hành trình đến Quảng Nam rồi Quảng Ngãi và Bình Định. Gần Bình Định ông đã khinh xuất để người lái xe vượt qua hàng rào chắn ở trạm kiểm soát mà không dừng lại để kiểm tra giấy tờ. Một lính gác đã bắn vào xe ông, nên xe phải dừng lại. Hai anh dân quân xem giấy tờ của Võ Nguyên Giáp với thái độ đầy nghi hoặc trước khi cho đi. Ông đi tiếp đến Khánh Hòa, tại đây ông đã bị chặn lại vì máy bay Pháp bắn phá. “Rõ ràng là địch muốn phá vây ở Nha Trang để chiếm một số tỉnh ven biển trước khi cắt đứt hẳn con đường tiếp tế từ miền Bắc”.

Đó cũng là lúc Võ Nguyên Giáp nhận được điện khẩn của Hồ Chí Minh giục trở ra Bắc gấp. Bỏ dở cuộc đi thăm mặt trận đã được dự kiến, Võ Nguyên Giáp lệnh cho lái xe đi gấp ra Hà Nội. Một buổi chiều giáp Tết 1946, ông qua đèo Hải Vân ở ngay phía bắc Đà Nẵng. Tiết trời xám xịt đầy mây, sương mù xóa nhòa ranh giới mây trời và biển ở đường chân trời. Khi xe đi qua một khúc quanh một bên là vách đá, một bên là vực thẳm, trời bỗng đổ mưa. Vậy mà xe vẫn bị chặn lại để lính Tàu Tưởng kiểm soát giấy thông hành. Mưa nặng hạt đến nỗi đèn pha chỉ chiếu được năm sáu mét đằng trước. Võ Nguyên Giáp nghĩ đến Tết đón năm mới ở miền Bắc, mong chóng kết thúc chuyến đi dài và chậm này, trong lòng còn suy ngẫm về sức mạnh của người Pháp mà ông đã có thể cảm nhận được trong chuyến đi công tác miền Nam lần này.

1. Việt Minh thỏa thuận với Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội là trong Chính phủ liên hiệp, Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ giao cho người không đảng phái. Vì vậy, ông Phan Anh là Bộ trưởng Quốc phòng, cụ Huỳnh Thúc Kháng làm Bộ trưởng Nội vụ, Quân sự ủy viên hội do Võ Nguyên Giáp (Việt Minh) làm chủ tịch. Vũ Hồng Khanh (Việt Nam Quốc dân Đảng) làm phó chủ tịch (ND).

<<Chương 7 “Hoan nghênh các bạn người Mỹ” Chương 9 “Chúng ta phải thực tế” >>

Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Cờ lau dựng nước

Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt