Chiến thắng bằng mọi giá

Chương 22 “Những kỷ niệm không bao giờ phai”

<<Chương 21 “Người ta đã đặt tôi xuống mồ cả chục lần” Chương 23 Một sự đánh giá >>

Chương 22 “Những kỷ niệm không bao giờ phai”


Thắng lợi của cộng sản ở miền Nam Việt Nam vào năm 1975 đã có ảnh hưởng dây chuyền ở Lào và Campuchia. Thế giới phương Tây vốn thấm nhuần học thuyết đôminô tưởng rằng ba đảng cộng sản ở Đông Dương từ nay làm việc hòa hợp với nhau với sự chỉ huy chung, gắn bó anh em với nhau về ý thức hệ để đạt mục tiêu chung. Bản thân Việt Nam chắc là đi theo quan điểm đó một thời gian và xây dựng lại mối quan hệ gắn bó ba nước Đông Dương từ thế kỷ XIX. Ở thời kỳ suy vong, hai vương quốc Lào và Campuchia phải triếu cống cho triều đình Việt Nam giống như quan hệ của Việt Nam đối với Bắc Kinh. Nhưng tình hình diễn ra lại không phải như thế. Cộng sản Pathet Lào lâu nay được người Việt Nam ủng hộ tiếp tục giữ thái độ hòa hảo với người bạn láng giềng ở phía đông. Còn Khmer Đỏ thì chống lại sự chi phối của Việt Nam. Pol Pot nhớ dai, tiếp tục trách cứ Việt Nam không tìm cách bảo vệ lợi ích của Campuchia tại Hội nghị Geneva năm 1954 về Đông Dương.

Dưới chế độ Pol Pot, Khmer Đỏ theo đuổi một chính sách chống Việt Nam gay gắt. Ngay sau chiến thắng của cộng sản ở Sài Gòn và Phnom Penh năm 1975, đã xảy ra nhiều cuộc đụng độ ở biên giới chung Việt Nam và Campuchia. Phần lớn các cuộc đụng độ đều do người Campuchia, nay gọi là Kampuchea gây sự trước. Pol Pot – kẻ độc tài mới của Kampuchea – quyết tâm lấy lại các vùng biên giới bị Việt Nam chiếm cách đây nhiều thế kỷ. Lực lượng Khmer Đỏ đã đổ bộ lên đảo Phú Quốc và đảo Thổ Chu trong Vịnh Thái Lan và chiếm luôn hai đảo này. Họ làm ngơ trước những gợi ý của Hà Nội là những vấn đề tranh chấp biên giới có thể giải quyết thông qua thương lượng. Nhiều trận giao tranh đã nổ ra dọc biên giới trong tháng 5/1977 buộc Việt Nam phải bỏ hai thành phố ở phía nam trong vùng lãnh thổ Kampuchea đòi lại. Báo đài tại Hà Nội loan tin về các hành động chém giết của quân Khmer Đỏ đối với dân thường vùng biên giới, hãm hiếp, mổ bụng, moi ruột phụ nữ có mang, chặt đầu, mổ bụng ăn gan nạn nhân, chặt xác trẻ em ra từng mảnh. Hàng trăm nghìn hecta đất bị bỏ hoang vì nông dân phải chạy về các nơi an toàn để nương thân.

Tháng 12/1977, Việt Nam chống trả. Đó là sau một cuộc tập kích của Khmer Đỏ vào tỉnh Tây Ninh làm khoảng 2.000 người chết và bị thương. Các đơn vị quân đội Việt Nam chiếm vùng Mỏ Vẹt ở Kampuchea. Sự việc này tạo một cớ mới cho Pol Pot và hai bên đã giao chiến ác liệt ở biên giới. Ngày 31/12 năm đó, Pol Pot cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Khoảng tháng 1/1978, quân đội Việt Nam chiếm một vùng lãnh thổ rộng một nghìn cây số vuông ở Campuchia dọc biên giới hai nước. Trung Quốc cho biết họ ủng hộ Pol Pot và gửi cố vấn Trung Quốc hợp tác với quân Khmer Đỏ. Trung Quốc còn viện trợ ồ ạt cho Khmer Đỏ dưới dạng hàng trăm khẩu pháo phòng không tầm xa, xe tăng và nhiều máy bay và trực thăng chiến đấu.

Sau đó trong tháng 1, Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng tư lệnh quân đội bay đi Vieng Say, phía bắc Lào để gặp tướng Liên Xô Grigoriyevich Pavlovski chỉ huy lục quân Liên Xô đang có chuyến thăm hữu nghị những người cộng sản Lào. Hai vị tướng lĩnh thảo luận về tình hình căng thẳng hiện nay ở Kampuchea và các giải pháp để khắc phục.

Khmer Đỏ xây dựng một chế độ quái gở! Những hành động tội ác tăng lên hàng ngày. Khmer Đỏ trở thành kẻ tàn sát đối với các nước, đồng nghĩa với bạo lực và khủng bố không có giới hạn. Nếu người Việt Nam có thể tha thứ những hoạt động của Khmer Đỏ trên đất nước Kampuchea của chính họ thì họ không thể nhắm mắt làm ngơ trước những vi phạm biên giới đang tăng lên, trong đó lính Khơme Đỏ đôi khi vào sâu 30 cây số về phía đông đường biên giới. Tương tự như vậy, họ không thể để lực lượng Campuchia đốt phá các làng Việt Nam ở biên giới mà không bị trừng phạt. Pavlovski đề nghị với Võ Nguyên Giáp một giải pháp thiết thực cho vấn đề Kampuchea, chỉ cần nhớ lại mùa xuân Prague năm 1968 khi người Liên Xô cảm thấy bị đe dọa vì những thay đổi Alexander Dubcek cho thi hành ở Tiệp Khắc. Vậy phải gửi quân đến Phnom Penh và giải quyết bằng vũ lực. Võ Nguyên Giáp có lý do để suy nghĩ trên đường về Hà Nội.

Trong những tuần lễ tiếp theo, tâm trí của ông đầy ắp những suy nghĩ về chiến tranh. Người ta kể lại những bài diễn văn của ông phát biểu tại các đơn vị quân đội rằng phải tăng cường cố gắng tập luyện sẵn sàng chiến đấu, nắm vững lý thuyết và thực hành nghệ thuật chỉ huy và kiên trì bảo vệ tinh thần tiến công cách mạng. Võ Nguyên Giáp không nghi ngờ gì nữa nghĩ rằng các lực lượng vũ trang của đất nước chẳng bao lâu nữa lại phải tung vào cuộc chiến Campuchia. Cuối tháng ông tham dự hội thảo về khoa học và công nghệ ở thành phố Hồ Chí Minh, ở đó ông gặp các “anh chị em trí thức”. Đó là dấu hiệu đầu tiên cho biết con người đã qua nghề làm báo, thầy giáo lịch sử rồi có những cấp bậc cao nhất trong quân đội, bây giờ tự coi mình thuộc tầng lớp trí thức. Ông thúc giục những người tham dự hội thảo “phát huy lòng yêu nước và cống hiến cho chủ nghĩa xã hội”. Trước những cặp mắt chú ý, ông nêu bật vấn đề chất lượng các loại máy móc nông nghiệp công cụ cầm tay, các sản phẩm mới, các sáng kiến cải tiến kỹ thuật của các chương trình nghiên cứu khoa học đã được áp dụng vào sản xuất trên cơ sở thực nghiệm.

Võ Nguyên Giáp biên soạn nhiều cuốn sách ấn hành tháng 12 năm 1979 nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày thành lập quân đội như Chiến tranh giải phóng dân tộc và quốc phòng toàn dân bao gồm một số bài viết từ năm 1970 trên các mặt cơ bản của đường lối quân sự của Đảng. Toàn dân Việt Nam quyết tâm bảo vệ nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa là cuốn sách giải quyết sự đối kháng mới đây giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Tình hình căng thẳng thêm không những giữa Việt Nam và Kampuchea mà cả với Trung Quốc. Ngày 3/7/1978, Bắc Kinh chấm dứt mọi viện trợ kinh tế và ngày 16, triệu hồi Đại sứ tại Hà Nội. Tháng 8, Trung Quốc và Việt Nam tố cáo nhau gây ra xung đột ở biên giới. Sự quan tâm của Bộ Chính trị trước giải quyết hòa bình các vấn đề tranh chấp bằng chính sách ngoại giao tan biến. Trước hết phải quan tâm vấn đề Pol Pot, Kampuchea đã tăng quân số từ 7 sư đoàn năm 1975 lên tới 23 sư đoàn trong thời điểm hiện nay. Trong số đó 19 sư đoàn đã đóng dọc biên giới chung. Với sự giúp đỡ của Võ Nguyên Giáp là Bộ trưởng Quốc phòng và Ủy viên Bộ Chính trị, Văn Tiến Dũng gửi quân sang Kampuchea. Từ ngày 14/12, người ta đưa tin các sư đoàn Việt Nam tiến cách nam Kampuchia 112 km. Ngày 23/12, Pol Pot ra lệnh tấn công lớn vào Tây Ninh, Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng phản ứng tức thì bằng cuộc phản kích mạnh.

Lần này quân của Văn Tiến Dũng tiến vào Kampuchea với mệnh lệnh là không dừng lại. Nhanh chóng nổi lên khắp nơi cuộc kháng cự của Khmer Đỏ, các đơn vị Việt Nam chiếm Phnom Penh ngày 7/1/1978. Pol Pot cùng tàn quân trốn vào rừng, mãi bốn năm sau mới xuất đầu lộ diện. Hà Nội giúp lập một chính phủ mới ở Kampuchea do những phần tử của Khmer Đỏ không theo Pol Pot lãnh đạo. Đó là Hội đồng Cách mạng Nhân dân lâm thời do Heng Samrin lãnh đạo. Ba ngày sau Samrin tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia.

Sáng ngày 17/2/1979, quân đội Trung Quốc mở cuộc tấn công mặt đất có pháo binh và không quân trợ lực suốt 750 cây số giữa Trung Quốc và Việt Nam. Một đội quân từ 200.000 đến 300.000 lính Trung Quốc được phái xuống phía nam và nhanh chóng đứng trước cuộc kháng cự quyết liệt của quân đội Việt Nam.

Đứng đầu quân đội là đại tướng Văn Tiến Dũng, Võ Nguyên Giáp vẫn là Bộ trưởng Quốc phòng. Võ Nguyên Giáp không chịu bó tay ngồi theo dõi các sự kiện không có sự tham gia của ông. Ông đã dìu dắt quân đội từ lúc còn thơ nay đã đến tuổi trưởng thành. Đó là sản phẩm sáng tạo của ông lúc này đang đương đầu với kẻ thù phương Bắc từ nhiều thế kỷ nay. Ông tham khảo thường xuyên với người kế nhiệm. Quân đội đó biết chiến đấu và chiến đấu khá tốt như trước đây trong quá khứ chỉ có một mình Võ Nguyên Giáp chỉ huy mặc dù về mặt chính thức Văn Tiến Dũng là người đứng đầu. Kế hoạch của Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng kết hợp chặt chẽ với lòng dũng cảm của người lính Việt Nam, thoạt đầu hơi chùn bước trước sự tấn công của quân đội Trung Quốc, sau đó hoàn toàn quay lại với phong độ vốn có. Họ giáng cho quân đội Trung Quốc một trận đòn nhớ đời.

Chưa đầy ba tuần lễ chiến tranh, Trung Quốc mất khoảng 30.000 lính. Ngày 5/3/1979, nhà cầm quyền ở Bắc Kinh tuyên bố rút quân. Trong lúc họ muốn cho Việt Nam một bài học thì chính họ lại nhận lại một bài học không mong đợi. Kém chuẩn bị để đương đầu với cuộc kháng cự về quân sự ở Việt Nam và ngập ngừng không muốn dành tất cả nguồn lực về sinh mạng và vật liệu cần thiết để đem lại chiến thắng, Chính phủ Trung Quốc nhanh chóng tiếp nhận đàm phán hòa bình.

Võ Nguyên Giáp đã nghiêm khắc phê phán động cơ và chiến thuật của người Trung Quốc. Nhớ lại ngôn từ trước đây đã dùng với Pháp và Hoa Kỳ, ông nói thêm: “Cuộc tấn công của Trung Quốc là cuộc chiến tranh phi nghĩa trong lịch sử”. Ngay cả khi Trung Quốc đã rút quân, ông cũng khẳng định: “Người Trung Quốc không từ bỏ ý đồ thâm sâu của họ và tiếp tục tập trung quân dọc biên giới, dựng lên các vụ khiêu khích và đe dọa tiến hành cuộc xâm lược mới”.

Khi trả lời phỏng vấn của Daniela Kuneva – nữ phóng viên đài truyền hình Bulgaria, Võ Nguyên Giáp đã cảnh báo người Trung Quốc có thể lặp lại một cuộc xâm lược mới chống Việt Nam. Ông tuyên bố: “Việt Nam sẽ thắng dù quy mô của cuộc tiến công mới có như thế nào”.

Trong tám năm tiếp theo, hai bên thỉnh thoảng lại pháo kích lẫn nhau một cách tình cờ và ít có sức thuyết phục trong lúc các cuộc đàm phán “hòa bình” vẫn tiếp tục...

Sự uy hiếp từ bên ngoài đã được giải quyết ít nhất là tạm thời. Võ Nguyên Giáp trả lời phỏng vấn, viết bài và đọc các bài diễn văn tại các cuộc hội nghị, hội thảo về giáo dục và công nghệ. Tại hợp tác xã nông nghiệp Yên Sở ở ngoại thành Hà Nội, ông nói chuyện với nông dân, khen ngợi công việc sản xuất của họ. Ông yêu cầu họ thực hiện mục tiêu “mỗi lao động làm một hecta, nuôi ba lợn trên một hecta”.

Tháng 10 và 11 năm đó (1979) đưa lại cho ông những viễn cảnh đa dạng hơn. Một lần nữa ông chuẩn bị đi công tác nước ngoài trong thời gian kéo dài, dẫn đầu một đoàn đại biểu chính phủ đi thăm chính thức Đông Đức, Tiệp Khắc, Algeria, Lybia và Liên Xô. Những cuộc đi thăm hợp tác xã trở thành công việc quen thuộc đối với ông. Trở về nước ông lại đi thăm hợp tác xã nông nghiệp ở một xã thuần nông, xã Đường Lâm, huyện Ba Vì cách Hà Nội không xa.

Võ Nguyên Giáp, người chiến binh già thận trọng giờ vẫn là Ủy viên Bộ Chính trị, ông vẫn giữ ghế Phó Thủ tướng Chính phủ nhưng không giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng nữa, nhường cho người trước đây ông che chở là tướng Văn Tiến Dũng. Trước đó, ông đã không còn là Tổng tư lệnh quân đội. Ông đứng đầu ngành Khoa học và Công nghệ.

Thế là ông bắt đầu những chuyến kinh lý đi thăm các hợp tác xã nông nghiệp, ở đó ông đề cao hiệu quả của chăn nuôi, đọc diễn văn trước Ủy ban Khoa học và Công nghệ, đi thăm thành phố Hồ Chí Minh để nói chuyện với các nhà khoa học và cán bộ kỹ thuật. Ông phát biểu trong hội nghị Địa chất, gặp gỡ các đoàn đại biểu, Viện Hàn lâm khoa học Bulgaria đang ở thăm Việt Nam, tiếp đoàn đại biểu kinh tế và thương mại của Tiệp Khắc, Đông Đức, v.v…

Có một lần, trong buổi họp, ông lại nói về thời xa xưa và quá khứ quân sự của ông trong năm 1980 khi ông đi thăm một di tích lịch sử trong tỉnh Hải Dương nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi. Trong một bài phát biểu dài, ông gợi lên các kỷ niệm khi ông còn trong hàng ngũ quân đội và kể lại ông đã học tập gương Nguyễn Trãi bằng cách lấy yếu đánh mạnh, thường đánh bất ngờ, lấy ít địch nhiều hay dùng mai phục… “Người anh hùng thời xưa đó”, ông nói, “đã dạy rằng bằng cách tránh địch lúc đang hăng, đánh vào chỗ yếu có thể thắng kẻ địch mạnh gấp đôi mà chỉ dùng lực lượng ít hơn hai lần. Nguyễn Trãi rất tự hào về đất nước tươi đẹp của mình, với núi sông hùng vĩ, sản phẩm dồi dào, tự hào về nền văn hiến đã lâu, về phong cách sống đặc biệt, tự hào về lịch sử sáng ngời và cuộc kháng chiến hào hùng chống xâm lược nước ngoài.” Đối với Nguyễn Trãi cũng như đối với Võ Nguyên Giáp, tình yêu đất nước gắn chặt với tình yêu nhân dân, vì nhân dân và đất nước là một.

Ông kể lại trong những ngày còn ở Việt Bắc, “núi sông tươi đẹp như mang màu áo mới”. Ông phát triển ý tưởng trên một giọng trữ tình, khác hẳn kiểu nói hào hùng, đanh thép mọi khi. “Tiếng chim ríu rít, một cánh hoa tươi, một làn gió nhẹ, mấy giọt mưa rơi với làn gió mùa xuân… tất cả đều có thể lay động tâm hồn của thi sĩ.” Và rồi ông đọc thơ:

Nhân tài như lá mùa thu

Tuấn kiệt như sao buổi sớm.

Hoặc nữa:

Khi người chăn cừu thổi sáo

Mặt trăng vươn cao hơn trên bầu trời

“Văn học”, ông kết thúc bài ca ngợi, “có thể và phải nâng cao tâm hồn con người”.

Võ Nguyên Giáp còn có ba chuyến công tác nước ngoài nữa trong năm 1980. Tháng 2, ông thăm Liên Xô. Cùng với Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ông đi Liên Xô chuyến thứ hai ngày 14/6 và tháng 7 ông mới trở về. Chuyến thứ ba kéo dài hơn. Ra đi những ngày đầu tháng 11, ông trở về vào giữa tháng 1 năm sau (1981). Đoàn của ông thăm Yemen, Madagascar, Mozambique, Ethiopia, Guinea, Benin, Congo, Angola và Algeria. “Châu Phi năm 1981”, ông nói: “không còn là bức tranh nhiều màu sắc của các thuộc địa, các quốc gia dưới sự thống trị của phong kiến và ngoại bang như trước đây nữa. Một Châu Phi mới đang trên đà phát triển, chứng tỏ đã có một sức sống mạnh mẽ và… không điều gì có thể chặn đứng bước đi lên của châu Phi”.

Giữa các chuyến đi đó, Võ Nguyên Giáp gặp lại nhà báo Wilfred Burchett và có cuộc phỏng vấn đã được công bố ngày 7/7/1980 trên tờ Guardian ở London. Võ Nguyên Giáp mặc bộ quân phục đại tướng khi trả lời phỏng vấn:

“Tôi luôn luôn để mắt đến công cuộc quốc phòng”, ông nói, “tôi bao giờ cũng là một quân nhân. Hôm qua tôi ở trên mặt trận giải phóng dân tộc và thống nhất. Bây giờ theo quyết định của Đảng, tôi đang ở trên mặt trận xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khó khăn lớn nhất của chúng tôi”, ông nói thêm, “là bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng một lúc.”

Tháng 4/1981, Võ Nguyên Giáp dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao đến Vientiane (Lào). Sau đó và trong năm 1982, ông dành thời gian nói chuyện với các nhà khoa học và cán bộ kỹ thuật. Cuộc sống của ông bây giờ phần lớn dành cho các lễ nghi chính thức.

Sau này, ông ngày càng để nhiều thời gian sống trong ngôi biệt thự ở phố Hoàng Diệu gần quảng trường Ba Đình. Xung quanh có nhiều cây cối, ngôi nhà của ông có hai tầng, lui vào 30 m so với mặt đường phố. Ngay bên trong cửa ra vào trên tường treo một bức ảnh lớn Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp chụp chung năm 1945 ngay sau ngày cách mạng thành công. Sàn nhà đều bằng gỗ làm kỹ và đẹp từ thời thuộc địa. Đồ gỗ bày biện trong nhà khá giản dị, khiêm tốn. Trong phòng khách chính là chiếc đi-văng có các gối, các ghế đẩu thấp và một bàn thấp.

Vợ ông, bà Đặng Bích Hà là một phụ nữ lịch thiệp, tính tình dễ chịu lo việc đón tiếp chào mời khách khi họ đến thăm ông. Tóc bà nay đã hoa râm, cắt ngắn uốn nếp. Ông nói rất ít, dù tuổi đã cao nhưng ông vẫn mạnh khỏe và hoạt bát. Cặp mắt luôn luôn tỏa sáng đầy vẻ thông minh sắc sảo. Đôi khi, dù là ở nhà, ông cũng mặc quân phục, không có cà vạt và chân đi dép bện thừng. Khi có mặt bà Hồng Anh – con gái lớn của ông, bà thường mời khách uống trà xanh ướp hoa thơm với nhãn hoặc hạt sen. Ông không còn uống trà, thường nói đùa với khách: ở tuổi ông, ông chỉ dùng trà “trắng”, nghĩa là nước lọc.

Mặc dù công khai lui về nghỉ nhưng ông vẫn có mặt trên các phương tiên truyền thông. Trong một buổi trả lời phỏng vấn cho phóng viên hãng Reuters vào tháng 9/1991, nhân danh chính phủ, ông thúc giục Hoa Kỳ bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam. Có một lúc, mặt lạnh như tiền, giọng mỉa mai, ông bày tỏ ý muốn được gặp Westmoreland chừng nào ông ta muốn đến Hà Nội. Theo đúng chính sách của chính phủ, ông hoan nghênh sự thay đổi của Việt Nam theo hướng của nền kinh tế thị trường đồng thời giải thích tất cả những gì đang diễn ra không có nghĩa là chấp nhận kinh tế tư bản chủ nghĩa. Ngày 20/8/1991, chính phủ trao tặng ông Huân chương Sao Vàng – huân chương cao quý nhất của đất nước.

Ông đã trở lại Pắc Bó để thăm Bảo tàng Hồ Chí Minh được xây dựng lại tại miền cực bắc ở Việt Nam cách biên giới Trung Quốc vài cây số, nơi ông đã trải qua bước đầu binh nghiệp, nơi trước đây Hồ Chí Minh và ông đã cùng làm việc ở một thời điểm mà lúc đó Việt Nam chỉ mơ được giải phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc Pháp. Ông ngồi ở hàng ghế sau trên chiếc ôtô sản xuất ở Nga, nhìn qua cửa kính, trong lúc người lái xe cho xe đi chậm để tránh các vệt xe đi trước và các ổ gà sâu hoắm trên con đường bị hỏng nặng. Ông như bị lạc trong muôn vàn ý nghĩ của mình. “Những kỷ niệm không bao giờ phai...”. “Tôi thích ngày dài hơn, đường sá tốt hơn”, ông tự nhủ một mình, “để có thể đi thăm dễ dàng hơn. Nhưng đó chính là điều mà tôi không thể có... Trong thực tế, tôi biết rõ từng ngọn núi, từng con sông, ngọn suối và từng thị trấn ở vùng này”.

<<Chương 21 “Người ta đã đặt tôi xuống mồ cả chục lần” Chương 23 Một sự đánh giá >>

Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Cờ lau dựng nước

Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt