Chiến thắng bằng mọi giá
Chương 13 “Chúng tôi đã phải vượt qua 30 con suối”
Chương 13 “Chúng tôi đã phải vượt qua 30 con suối”
Võ Nguyên Giáp trong tâm trạng lạc quan tưởng rằng đầu năm 1951 con đường về Hà Nội đã rộng mở. Tâm trạng lạc quan này có phần do chịu ảnh hưởng của các cố vấn Trung Quốc được cử sang giúp kháng chiến Việt Nam. Cuối năm 1951, người Trung Quốc ỷ vào thắng lợi đạt được ở Triều Tiên bằng cách áp dụng “chiến thuật biển người” chống kẻ thù Mỹ đã bênh vực việc áp dụng chiến thuật tương tự vào cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Nam. Phương pháp này thành công trên biên giới phía bắc, tại đây quân Pháp bị phân tán và có ít đường giao thông nội bộ hay đường vận chuyển bằng ôtô. Sự lựa chọn của Võ Nguyên Giáp dựa theo quan điểm đó đã đưa ông vào một chiến dịch bất lợi.
Võ Nguyên Giáp quá tin vào sức mạnh do viện trợ đem lại, đánh giá thấp tính cơ động và sức mạnh của quân Pháp, ra lệnh tiến công. Thế là bộ đội của ông được ném vào trong chiến dịch đầu tiên chống quân dù, quân lê dương và đơn vị phụ trợ Maroc và Việt do De Lattre chỉ huy. Trận Vĩnh Yên cách Hà Nội 48 km về phía tây bắc. Phải kéo quân Pháp ra khỏi các vị trí kiên cố ở Vĩnh Yên để quân Võ Nguyên Giáp mở đường tiến vào Hà Nội. Nhiều người đã tin rằng chỉ vài tuần nữa là có thể vào Hà Nội trước Tết âm lịch.
Công việc chuẩn bị chiến dịch đã thể hiện rõ tài năng của Võ Nguyên Giáp trong lĩnh vực hậu cần. Trong các chiến dịch trước ở biên giới phía bắc, để tiếp tế cho năm trung đoàn đủ lương thực và súng đạn trên một địa hình lý tưởng, ít nhất phải có ba tháng chuẩn bị trước khi đưa quân diệt một kẻ thù bị cô lập. Lần này, đưa mấy đại đoàn vào trận đánh trên một địa hình trống trải như đồng bằng sông Hồng, ông đã không thành công trong việc huy động dân chúng phối hợp với bộ đội để tạo sức mạnh mà ông mong muốn.
Có lẽ Võ Nguyên Giáp nghĩ rằng quân đội của ông đã trưởng thành nên không cần sự ủng hộ của các đơn vị du kích. Bên cạnh đó, kỷ luật quân đội, các thứ vũ khí do Trung Quốc viện trợ và lòng dũng cảm là đủ. Tuy nhiên, Võ Nguyên Giáp vẫn ra lệnh lập các kho vũ khí dự trữ dọc đường tiến quân. Với sự nỗ lực không thể tin được, dân công miền Bắc đã chăm chỉ chở gạo, vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men cần thiết đến những chỗ quy định để ủng hộ các đơn vị chủ lực đang đánh địch ở Vĩnh Yên. Võ Nguyên Giáp dự tính sẽ đưa ra tiền tuyến 5.000 tấn gạo, đạn dược và vật dụng khác, tất cả tốn chừng hai triệu ngày công. Rồi ông ra lệnh cho mọi người vào tư thế sẵn sàng chiến đấu. Khối chủ lực gồm 61 tiểu đoàn bộ binh, 12 tiểu đoàn có vũ khí nặng, 8 tiểu đoàn công binh. Tất cả đã sẵn sàng.
Đến 17 giờ ngày 17/1/1951, Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho hai đại đoàn 308 và 312 xuất phát tiến công. Được yểm trợ bằng súng cối và trọng liên, một đại đoàn tiến hành các đợt xung phong liên tiếp lên bốn quả đồi ở phía bắc và phía đông thành phố nhưng không thành công.
Mặc dù có viện trợ của Trung Quốc nhưng bộ đội của Võ Nguyên Giáp vẫn kém về hỏa lực, về tổ chức tấn công nên không đủ sức để đẩy lui quân địch. Quân Pháp đã tăng cường binh đoàn phòng thủ Vĩnh Yên bằng hai đơn vị cùng loại. Ngoài ra, máy bay thả bom na-pan mới lấy ở kho Hải Phòng do tàu Mỹ chở đến. Thứ vũ khí hóa học đó cộng với đạn pháo tập trung đã gây nhiều thiệt hại cho đội hình của Võ Nguyên Giáp. Trưa ngày 18/1, nhận thấy không thể chọc thủng hệ thống phòng thủ của Pháp, Võ Nguyên Giáp hạ lệnh thu quân. Quân Pháp tại Vĩnh Yên vẫn giữ được quyền kiểm soát thị xã.
Khói súng vừa tan, Võ Nguyên Giáp đã lượng định được kết quả trận đánh. Trong hai đại đoàn tham dự trận đánh, số lính tử trận lên tới 6.000 người, bị thương 8.000 và bị bắt làm tù binh 500 người. Bom na-pan là tác nhân chính gây thiệt hại. Trong bốn năm đấu tranh, đây là lần đầu tiên Võ Nguyên Giáp chịu thất bại.
Ông đã nhận thấy đây là một sai lầm. Ông biết một cuộc tiến công mới chống Pháp sẽ mở ra con đường tiến về Hà Nội. Không nản lòng, ông quyết định lần này, dưới một góc độ khác, chọc thủng hệ thống phòng thủ khác xung quanh vùng châu thổ sông Hồng. Ngày 23/3/1951, Võ Nguyên Giáp hạ lệnh cho ba sư đoàn bộ binh triển khai hoạt động ở rìa phía đông vùng đồng bằng đang bị địch kiểm soát. Ba sư đoàn sẽ phải tiến về Hải Phòng và bẻ gẫy hệ thống phòng thủ phía đông. Họ tới được Mạo Khê cách Hải Phòng 24 km nhưng vấp phải hàng loạt bốt tiền tiêu của địch. Sau tám ngày cố gắng vô ích, Võ Nguyên Giáp kết thúc chiến dịch. Ông đã mất thêm 3.000 quân không phải vì những cuộc bắn phá của máy bay mà của hạm đội Pháp đậu ở ngoài khơi câu đại bác vào. Ngoài ra, một số tàu Pháp hoạt động trên sông đã ngăn quân đội của Võ Nguyên Giáp không vào được Mạo Khê.
Võ Nguyên Giáp luôn là con người lạc quan. Ngay sau đó, ông đã khẩn trương và kiên quyết đưa cuộc tấn công sang rìa phía tây đồng bằng Bắc Bộ với ý định buộc người Pháp ra khỏi khu vực sông Hồng dọc sườn phía nam đồng bằng. Kế hoạch của ông rất đơn giản. Ngày 29/5/1951, ông ra lệnh các đơn vị vượt qua sông Đáy, đại đoàn 304 đánh Phủ Lý, đại đoàn 308 tấn công Ninh Bình, còn đại đoàn 320 đánh vào Phát Diệm, trong lúc đó hai trung đoàn chủ lực đã vào địch hậu từ trước mở rộng địa bàn hoạt động phối hợp trong đánh ra, ngoài đánh vào.
Một lần nữa Võ Nguyên Giáp đã chứng tỏ được tài năng đánh vận động chiến và giải quyết hậu cần. Hai trong các sư đoàn chủ lực đã đi 240 km từ đông sang tây mà không bị Pháp phát hiện. Công tác hậu cần đã huy động 10 vạn dân công. Nhưng lần này Võ Nguyên Giáp đã chọn địa bàn hoạt động của chiến dịch có nhiều bất lợi. Cả hai đại đoàn đều quần nhau với địch trên địa hình trống trải, tạo cơ hội cho máy bay Pháp một lần nữa dùng bom na-pan để phá vỡ đội hình tiến công. Sau khi để cho Việt Minh gặt hái được một vài thắng lợi ban đầu, bộ chỉ huy Pháp tung vào trận ba binh đoàn cơ động. Ngoài ra, Pháp còn điều thêm bốn cụm pháo, một trung đội xe bọc thép và tiểu đoàn dù thuộc địa số 7. Quân Pháp còn lợi thế là có đoàn tàu nhỏ đi trên sông để yểm trợ bộ binh trên bờ, được mệnh danh đoàn thủy đội xung kích.
Mặc dù Việt Minh đã chiếm được vài vị trí đầu cầu ở bờ phía đông sông Đáy, nhưng đoàn thủy đội xung kích và quân phòng thủ Pháp đặc biệt ở Ninh Bình (nơi con trai tướng De Lattre bỏ mạng) đã ngăn cản lực lượng Việt Minh tiến sâu thêm nữa.
Ngoài ra còn có một bất lợi khác. Dân chúng trong vùng chiến dịch không giống với các nhóm cư dân thiểu số ở Việt Bắc đã ủng hộ Việt Minh mọi lúc mọi nơi. Trong đó còn có cư dân Công giáo đối nghịch công khai ủng hộ người Pháp. Một tai họa khác xảy ra làm tiêu tan hy vọng của Võ Nguyên Giáp khi hạm đội Pháp ở ven biển cắt đứt các con đường tiếp tế. Quân Pháp không cần huy động đến lực lượng dự bị. Những người lính Việt Minh rút chạy trước hỏa lực áp đảo của Pháp, bị máy bay rải bom na-pan khắp nơi. Lúc đó Võ Nguyên Giáp mới ý thức được sức mạnh hỏa lực vượt trội của Pháp. Ông kết thúc cuộc tiến công và thu quân. Ông cần cứu vãn những gì còn sót lại. Ba chiến dịch liên tiếp trong một thời gian ngắn khiến lực lượng của Võ Nguyên Giáp bị tổn thất khá nhiều. 6.000 người chết ở Vĩnh Yên, 3.000 người ở Mạo Khê, 10.000 người trên chiến trường sông Đáy. Năm 1952, trong một cuộc tiến công vào căn cứ Pháp ở Tây Bắc, 9.000 quân nữa đã hi sinh.
Không còn sự lựa chọn nào khác, một lần nữa Võ Nguyên Giáp quay về vùng đồi núi, thu hẹp cuộc chiến đấu vào những vùng ông có thể tận dụng tối đa sức người với tính cơ động để vô hiệu hóa hỏa lực của Pháp. Những mất mát vừa qua đã giúp ông rút ra bài học. Từ nay ông coi việc lôi cuốn các tiểu đoàn Pháp vào các cuộc săn lùng không có hiệu quả trong các vùng hẻo lánh bằng hoạt động nghi binh hoặc kẹp chặt đối phương trong các vị trí tĩnh không có lối thoát như một chiến lược. Như một lần Võ Nguyên Giáp đã nói: “Nông thôn phải bao vây thành thị, núi non phải chế ngự các cánh đồng lúa ở đồng bằng”. Đó là một thời kỳ khó khăn đối với ông và ông chỉ có một điều an ủi: Những ai còn sống sót trong các trận thất bại này càng hiểu rõ được công việc của mình và cố gắng xây dựng một quân đội thật sự.
Võ Nguyên Giáp kiên quyết đứng trên một điểm: vai trò của ông là đánh bại quân Pháp, buộc chúng phải cuốn gói về nước. Thừa nhận trước Bộ Chính trị sai lầm của mình, ông tiến hành một kế hoạch mới nhưng lần này có thể De Lattre không phải là đối thủ của ông. Bị ung thư, De Lattre trở về Pháp và mất tại quê nhà, mang theo những hy vọng của Pháp. Chính phủ Pháp ghi nhận công lao và đã truy tặng ông cấp bậc Thống chế. Tạp chí Time đầu năm 1952 cũng xếp ông trong số những nhân vật xuất sắc của năm 1951.
Người kế nhiệm ông, tướng Raoul Salan điều chỉnh kế hoạch De Lattre để kiểm soát Hòa Bình. Đây là một thành phố then chốt cách Hà Nội khoảng 40 km đường chim bay về phía tây bắc, kiểm soát các nút giao thông thủy bộ then chốt ngược lên phía bắc và xuôi xuống phía nam, tiến ra phía tây về đồng bằng. Salan khởi sự tấn công tháng 11/1951 và quân đội Pháp đạt được mục tiêu. Hòa Bình bị chiếm đóng nhanh chóng. Võ Nguyên Giáp nhẫn nại đối phó với cuộc tiến công của Pháp đồng thời lượng định sức mạnh của lực lượng đối phương. Bốn tuần sau ông ra lệnh phản công. Quân Pháp bị tổn thất nặng nề, khiến tinh thần quân sĩ bắt đầu lung lay. (Xem bản đồ Hòa Bình và các vùng phụ cận).
Khoảng giữa tháng 2/1952, do tổn thất về số lượng và do Việt Minh tăng cường hoạt động, quân Pháp buộc phải rút khỏi Hòa Bình, lùi về thiết lập các vị trí phòng thủ dọc sông Hồng. Phải mất 11 ngày quân Pháp mới rút hết và họ vô cùng xót xa về tổn thất gần bằng trận Điện Biên Phủ sau này. Các cố vấn quân sự của Pháp kinh ngạc trước sự tiến bộ của quân Việt Nam. Đội quân của Võ Nguyên Giáp đang trở thành một quân đội không thể xem thường. Giờ đây ông đã bỏ bộ quần áo dân sự với mũ phớt và cà vạt như hồi Chiến tranh thế giới thứ hai để mặc quân phục.
Các vị tướng lĩnh và các nhà phân tích quân sự phương Tây nhiều lần coi thường và không chịu thừa nhận tầm vóc của Võ Nguyên Giáp. Tuy vậy, họ quên rằng những bài học mà Võ Nguyên Giáp học được trong những năm 1950 - 1953 được đền bù xứng đáng ở Điện Biên Phủ và sau đó. Trong lúc ông thành lập và chỉ huy quân đội thì ông cũng giữ vai trò của một nhà hoạt động chính trị. Ít có vị tướng lĩnh nào phải đương đầu với những nhiệm vụ chồng chéo, nhằng nhịt với nhau như thế.
Rõ ràng các kẻ thù của ông có thể là mạnh hơn ông, cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật hơn hẳn ông. Còn ông thì chiến đấu từ năm 1946 đến năm 1949, trong tay không có đến một chiếc xe tải, và khi nhận được của Trung Quốc vài chiếc xe thì cũng không đủ đường cái để xe lăn bánh. Ông đã cố gắng tự xoay xở theo sức mình. Ông phải truyền cho quân đội một tinh thần khác thường để bù lại các mặt yếu kém về kỹ thuật. Người ta thấy những người lính chân đồng dạ sắt, chiến đấu dũng cảm thường chấp nhận nhiều tổn thất hơn người khác. Đó là những hành động cần thiết để Võ Nguyên Giáp phát huy được sức mạnh của mình trong khi phải đối phó với sức mạnh của kẻ địch. Những tổn thất mà đội quân của Võ Nguyên Giáp phải chịu rút cuộc cũng không lớn hơn những những tổn thất đã được phát hiện trong các biên niên sử chiến tranh nói chung và chắc chắn là không cao hơn những tổn thất trong các cuộc chiến tranh ở châu Âu hay theo chuẩn của Mỹ.
Trong một số trường hợp, Võ Nguyên Giáp cũng đóng vai trò là một nhà ngoại giao. Cuối năm 1951, ông sang Bắc Kinh (Trung Quốc) dự lễ kỷ niệm lần thứ 7(1) quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ đã nói về “tình hữu nghị không lay chuyển nổi” giữa hai nước và tin chắc vào thắng lợi của cuộc kháng chiến Việt Nam chống Pháp. Võ Nguyên Giáp tuyên bố (có lẽ chỉ là theo lối ngoại giao) Việt Nam đi theo hệ thống quân sự của Trung Quốc hơn là Liên Xô. Ông nói rằng Việt Nam học hỏi được nhiều điều từ Trung Quốc, trong đó có hệ thống lý luận quân sự của Trung Quốc cũng như chiến lược và chiến thuật bổ ích với một thuộc địa muốn tự giải phóng. Trong khi đó, Việt Nam học tập được ở Liên Xô tinh thần quốc tế vô sản và sự trung thành không lay chuyển với lợi ích của nhân dân.
Tuy nhiên, đến thời điểm sau này, ông đã phân tích sâu sắc hơn những điểm khác biệt giữa lý luận quân sự của Việt Nam và Trung Quốc. Năm 1982 ông viết: “Khoa học quân sự của chúng ta không học được gì ở lý luận quân sự Trung Quốc. Chúng ta đã tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng nhờ Tổng khởi nghĩa tháng Tám (ở Hà Nội). Trong khi đó, lý luận quân sự Trung Quốc phủ nhận khả năng nổi dậy trong các thành phố. Ở Việt Nam chính quyền phát triển bắt đầu từ quyền làm chủ của nhân dân. Trung Quốc cho rằng chính quyền “từ nòng súng”. Hoặc nữa, trong nhiều thập kỷ, nhân dân miền Nam ta đã chiến đấu hy sinh trong các cố gắng quân sự và chính trị để giải phóng và thống nhất đất nước, nhưng Trung Quốc muốn chúng ta giữ lực lượng ở trình độ thấp trong thời gian rất lâu dài để trường kỳ mai phục. Họ nói với chúng ta rằng Việt Nam sẽ thống nhất nhưng điều đó có lẽ còn phải đợi một trăm năm nữa”.
Trở về Việt Nam dịp năm mới, Võ Nguyên Giáp bắt tay ngay vào việc chuẩn bị một hoạt động quân sự lớn gọi là Chiến dịch Tây Bắc. Ngày 11/10/1952 ba đại đoàn của ông mở cuộc tiến công vào vùng tây sông Đà ở phía bắc sông Hồng. Mục tiêu của Võ Nguyên Giáp là tiêu diệt các tiền đồn của Pháp không xa Lào, giúp các đơn vị được hoàn toàn tự do vận động đánh địch. Khi điều kiện cho phép, ông ném hàng đại đoàn vào một cuộc tiến công tiêu diệt các lực lượng đi lẻ chỉ bằng quân số một tiểu đoàn. Trong cuộc tiến công, Trung đoàn Độc lập 149 đã chiếm giữ một thời gian một làng nhỏ gần Lào có tên là Điện Biên Phủ. Không một bên nào dự cảm thấy tầm quan trọng của cái làng nhỏ bé đó như đã chứng tỏ hai năm sau.
Khi đã phát hiện thấy quân đội của Võ Nguyên Giáp đang cần dừng tấn công để lấy lại sức, Salan liền mở cuộc hành quân mang bí danh Lorraine có 30.000 quân tham dự đánh vào căn cứ của Việt Minh nhằm làm chậm cuộc tiến công của Võ Nguyên Giáp sang Lào. Chiến dịch Lorraine kết thúc cuối tháng 11/1952 sau khi quân Pháp bị sa lầy. Salan thất bại, không đạt được mục đích là buộc lực lượng của Võ Nguyên Giáp phải ngừng tiến công ở tây sông Đà. Võ Nguyên Giáp đã mô tả tâm trạng hụt hẫng, thất vọng của Salan: “Trong một cuộc chiến tranh như thế, trận tuyến ở đâu” và ông tự trả lời bằng cách nêu câu của Pascal: “Kẻ thù ở khắp nơi mà chẳng ai trông thấy ở đâu cả”.
Cùng thời gian đó, Võ Nguyên Giáp cho phép Joseph R. Starobin, một đảng viên cộng sản Mỹ đến thăm doanh trại của Võ Nguyên Giáp. Starobin thấy tổng hành dinh của Võ Nguyên Giáp quá đơn sơ, một cái lán bằng tre, mở ra một bên với một mái tranh. Bên trong có một cái bàn lớn phủ vải xanh, trên đó trải các tấm bản đồ của vị tướng chỉ huy. Nhiều bản đồ khác về chiến dịch năm 1952 treo trên ba bức vách cũng như những ảnh chân dung của Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông và Stalin. Dưới cánh dù làm mái là chiến lợi phẩm của các trận đánh năm 1952. Một máy phát điện đặt ở nhà bên cạnh cung cấp điện cho một bóng đèn treo lủng lẳng bằng một sợi dây. Bên ngoài chỉ có một lính gác trang bị tiểu liên Thompson. Khi tiếp Starobin, Võ Nguyên Giáp mặc bộ trang phục giản dị bằng kaki, không đeo huân chương, cấp hiệu. Sau đó Mỹ đã cho công bố những điều Võ Nguyên Giáp nói với Starobin về công tác hậu cần và những vấn đề mà ông phải đối mặt.
“Thực tế”, Võ Nguyên Giáp nói với Starobin, “chúng tôi có khả năng nếu cần, chở mọi thứ lương thực trên đôi vai. Trên từng chặng ngắn, mỗi dân công chỉ mang đủ đồ tiếp tế cho một người lính. Chiến dịch Tây Bắc mở ra trên một địa bàn ở đó các chặng tiếp tế tương đối dài đối với nước chúng tôi. Bề rộng vùng Tây Bắc chỉ 250 km, ba sông lớn phải vượt qua là sông Lô, sông Hồng và sông Đà, phải đi qua nhiều thung lũng sâu để đến tận đồn giặc […]. Chúng tôi còn phải vượt qua 30 con suối rộng 250 m, để mở đường hành quân trên các triền núi cao.”
Võ Nguyên Giáp giải thích: “Các sĩ quan Pháp bị bắt làm tù binh hỏi nhau tại sao chúng tôi có thể làm được điều đó. Họ không hiểu được tại sao chúng tôi có thể bất ngờ xuất hiện… cách căn cứ chúng tôi hàng trăm cây số. Một sĩ quan Pháp đã nói hắn rất ngạc nhiên nhìn thấy hàng đoàn dân công chở lương thực cho bộ đội mà không hề có một người lính nào đi áp tải. Người Pháp phải luôn luôn canh gác những người mang vác cho họ.”
Cuối năm 1952, sự kiểm soát của Pháp bị thu hẹp khá nhiều. Việt Minh nắm phần lớn lãnh thổ, ngoại trừ một số vùng ven biển như Huế, Đà Nẵng. Trên bản đồ của Võ Nguyên Giáp, toàn bộ phần phía bắc các vùng giải phóng đều được tô đỏ, ở đồng bằng sông Hồng, những chấm đỏ chỉ những vùng du kích. Những chấm đỏ cũng thấy rải rác ở châu thổ sông Mê Kông quanh Sài Gòn. Còn bán đảo Cà Mau thì hoàn toàn đỏ. Giữa tháng 10 và 12/1952, vùng biên giới giáp Lào ở Tây Bắc cũng tô đỏ khi Võ Nguyên Giáp tuyên bố đã kiểm soát được bốn thung lũng mà trước đây ở đó có 120 vị trí Pháp. Các đơn vị chủ lực của Võ Nguyên Giáp cũng kiểm soát khắp vùng thượng lưu sông Hồng và sông Đà. Người Pháp chỉ còn giữ được một vùng nhỏ giáp biên giới Trung Quốc và chúng phải tiếp tế bằng đường không. “Chúng tôi cứ để chúng ở đấy, nay mai cạn lương thực chúng sẽ phải rút,” Võ Nguyên Giáp cho biết.
Lực lượng du kích của Võ Nguyên Giáp tiếp tục uy hiếp đường sắt Hà Nội - Hải Phòng và các con đường chiến lược ở vùng châu thổ sông Hồng rất cần thiết cho quân Pháp. Ông vui mừng trước sự bối rối của địch. Ông nói tiếp với Starobin: “Hoặc là chúng phải cố một lần nữa tăng thêm các cứ điểm phòng ngự mà số lượng quân đóng giữ ở mỗi cứ điểm sẽ phải giảm đi và trong trường hợp ấy lực lượng của chúng sẽ phải phân tán và suy yếu, không thể có sự bảo vệ vững chắc chống lại các cuộc tấn công mới của chúng tôi, nay đã sử dụng đến một trung đoàn hay một đại đoàn. Hoặc là chúng sẽ phải giảm số lượng các cứ điểm, rút bớt một số ít tác dụng hoặc không đủ sức chống đỡ để củng cố những cứ điểm còn lại, như vậy vùng giải phóng sẽ được mở rộng, dân chúng theo về kháng chiến cũng sẽ tăng thêm”.
Võ Nguyên Giáp tỏ ý hài lòng về kết quả đạt được: “Du kích, bộ đội của chúng tôi lấy lại các đồn bốt rải rác đó chỉ sau vài phát súng.
Thực tế, trong nhiều trường hợp chúng tôi đã bao vây được các vị trí đóng quân của địch. Cứ mỗi lần thò đầu ra khỏi lô cốt, chúng trở thành mục tiêu cho các tay súng bắn tỉa của du kích.” “Thêm nữa”, Võ Nguyên Giáp tiếp tục, “chúng đi phá đê điều, không có đê thì không thể trồng lúa […]. Chiến thuật đó (của Pháp) chỉ làm cho dân chúng nổi dậy chống lại chúng.”
Theo Võ Nguyên Giáp, quân Pháp vấp phải hai khó khăn lớn: vận động tác chiến trong một nước không có mặt trận rõ ràng, chỉ bằng một loạt các đồn bốt phòng ngự trơ trọi giữa một biển cả dân chúng thù nghịch và thiếu quân số. Mặt khác, Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh, thực tế không có đội quân thật sự là của Pháp. Trong quân đội viễn chinh có khoảng 40.000 lính lê dương (quân đội đánh thuê, phần lớn có quốc tịch nước ngoài), 50.000 quân Maroc, Algeria, Tunisia, Senegal và các nước Tây Phi thuộc Pháp. Ngoài ra, người Pháp còn dựa trên các lực lượng giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài. Còn có 50.000 người Việt chiến đấu cho người Pháp mà Việt Minh gọi một cách miệt thị là quân đội bù nhìn hoặc ngụy quân. Cùng với 140.000 quân thuộc nhiều quốc tịch đó, Pháp chỉ có 90.000 quân toàn là lính tình nguyện, tức chỉ chiếm tỷ lệ 37% các hạ sĩ quan, 26% các sĩ quan tại ngũ.
Mặc dù có tới 230.000 người nhưng Pháp không hề có chút ý tưởng gì có thể đè bẹp các đơn vị tinh nhuệ của Võ Nguyên Giáp. Các đơn vị của Võ Nguyên Giáp tiến công quân Pháp khắp nơi ở miền Bắc trong vùng rừng núi, ở miền Nam và ngay ở Lào. Võ Nguyên Giáp để hai đại đoàn ở bắc châu thổ quấy rối địch, cắt đứt đường giao thông, đánh các đồn biên giới và ngăn cản chúng đi lại trên đường số 5 Hà Nội - Hải Phòng. Chiến thuật này ít nhất cũng cầm chân năm tiểu đoàn Pháp. Tháng 12/1953, trong năm ngày một vài đơn vị xuất phát từ Vinh tiến sang Lào bằng các đường mòn quanh sườn núi và tiến công quân Pháp ở Thà Khẹt, rồi quay về Seno - một căn cứ không quân của Pháp – bao vây trong năm ngày. Quân Pháp đối phó lại bằng cách phái hai tiểu đoàn không vận từ đồng bằng Nam Bộ và từ Sài Gòn đến để ứng cứu. Nhưng quân giải vây chưa lên đến nơi thì Võ Nguyên Giáp đã tháo vây, rút khỏi Seno và tiến về cao nguyên Boloven ở Hạ Lào.
Đối thủ của Võ Nguyên Giáp không còn là tướng Salan. Ngày 8/5/1953, tướng Henri-Eugène Navarre được cử sang thay Salan làm tổng chỉ huy tất cả các lực lượng Pháp ở Đông Dương. Mệnh lệnh của Chính phủ Pháp là trước hết, Navarre cần lượng định tình hình quân sự ở Việt Nam và gửi về Pháp một bản báo cáo để Chính phủ có thể tìm cách thương lượng trong danh dự. Về phần Mỹ, chính quyền Eisenhower đã phê phán người Pháp dậm chân tại chỗ, yêu cầu người Pháp kiên quyết theo đuổi cuộc chiến chống cộng sản. Navarre không có chút kinh nghiệm nào về Đông Dương, nhưng là một sĩ quan có tinh thần kỷ luật cao nên đã được Chính phủ Pháp chọn mặt gửi vàng. Navarre đã phục vụ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến đấu hai năm trong chiến hào. Năm 1940, ông bỏ trốn khỏi nước Pháp bị Đức chiếm đóng và chạy theo phe De Gaulle tiếp tục chống Đức. Năm 1942, ông được giao chỉ huy một trung đoàn xe bọc thép. Một thời gian sau ông được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng lục quân trong khối NATO (Tổ chức Hiệp ước Bắc Dại Tây Dương).
Tiếp theo hiệp ước ký năm 1950, viện trợ Mỹ cho Pháp tăng mạnh, cho phép Pháp tiếp tục theo đuổi cuộc chiến ở Đông Dương. Mỹ cung cấp cho Pháp vũ khí, đạn dược, máy bay, phụ tùng thay thế, tàu chiến, xe tăng, xe cơ giới và quân phục cho lính Pháp và lính Việt (ngụy) ở Đông Dương. Năm 1951, mỗi tháng trung bình có 6.000 tấn hàng viện trợ Mỹ được gửi tới cho Pháp tại Việt Nam. Đến năm 1953, con số viện trợ đã lên đến trên 20.000 tấn/tháng. Sau đó, Pháp yêu cầu tăng thêm, Mỹ đã đồng ý tăng lên 100.000 tấn/tháng. Đổi lại hàng triệu đôla và hàng triệu tấn hàng viện trợ đó, Mỹ chờ đợi kết quả cụ thể. Navarre sẽ phải phục vụ ở Đông Dương đến tháng 7/1954, có thể là người sẽ thỏa mãn được những đòi hỏi của Mỹ.
Vừa đặt chân đến Đông Dương, Navarre đã vô cùng đau lòng khi được biết có đến 100.000 quân Pháp bị cầm chân trong các công sự phòng thủ tĩnh. Ông ước tính Võ Nguyên Giáp có trên 125.000 quân chính quy tại ngũ, tập hợp trong sáu đại đoàn, ít nhất có sáu trung đoàn và nhiều tiểu đoàn độc lập ngoài lực lượng chủ lực đó. Người Pháp không có chút lợi thế nào về quân số. Nếu không thay đổi chiến lược, Pháp khó mà cứu vãn được tình hình ở Đông Dương. Và Navarre dần đi đến chiến lược của mình. Ông nhận ra Đông Dương chia làm hai chiến trường khác nhau rõ rệt. Pháp sẽ tránh chạm trán với chủ lực của Võ Nguyên Giáp trong các chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954 ở miền Bắc, bao gồm cả bắc Việt Nam và bắc Lào. Trong lúc đó Pháp sẽ tăng cường lực lượng.
Navarre cũng đồng thời quyết định cho Việt Minh một đòn mới – cuộc hành binh Atlante – để đuổi lực lượng Việt Minh khỏi các cao nguyên miền Nam. Bằng cách đó, ông sẽ càn quét các vùng do Việt Minh kiểm soát ở miền Trung của Việt Nam và đảo lộn kế hoạch tiến công của Võ Nguyên Giáp ở vùng này. Sau đó ông sẽ quét sạch lực lượng Việt Minh ở miền Nam. Navarre cũng xúc tiến mạnh việc lập thêm các đơn vị quân đội quốc gia Việt Nam (ngụy quân) làm lực lượng phụ trợ cho quân Pháp. Đồng thời Navarre lên kế hoạch đẩy mạnh bình định ở vùng châu thổ sông Hồng.
Sau cùng Navarre hy vọng trong Đông Xuân 1954 - 1955 sẽ có thể giao chiến lớn để tiêu diệt chủ lực của Võ Nguyên Giáp ở miền Bắc. Sau đó là tạo ra cơ hội thuận lợi để giải quyết cuộc chiến tranh trong danh dự. Navarre đã trình bày kế hoạch cho cấp trên của mình trong một cuộc gặp tại Sài Gòn ngày 16/6/1953.
Cuộc hành binh Atlante của Navarre là một đòn đánh vào chỗ trống. Đây là cuộc đột nhập vào vùng ven biển Trung Bộ ở Tuy Hòa bên dưới Quảng Trị dọc “con đường không vui”. Quân đội Pháp không gặp đối thủ để giao chiến, vì Võ Nguyên Giáp đã rút hết chủ lực ở vùng này và đưa ra Bắc, chỉ để lại lực lượng du kích nhằm quấy rối địch. Trong khi đó, ông mở nhiều cuộc tấn công nặng nề lên cao nguyên, chiếm Kontum và tiến về Pleiku. Cuối cùng Võ Nguyên Giáp phái Đại đoàn 316 sang Lào tiến lên Luang Prabang. Navarre cố chặn cuộc tiến công này bằng cách điều động năm tiểu đoàn lên Thượng Lào. Võ Nguyên Giáp đã bố trí lại lực lượng và bao vây quân Pháp tại một điểm không xa Điện Biên Phủ. Trận giao chiến ở đây đối với Navarre là sớm hơn kế hoạch, là tránh giao chiến với chủ lực Việt Minh trong Đông Xuân 1953-1954. Diễn ra một năm sớm hơn kế hoạch, trận giao chiến này sẽ được kế tiếp bằng một loạt các trận khác mà đỉnh cao là trận Điện Biên Phủ – tiếng chuông báo hiệu ngày tận số của đế quốc Pháp ở Đông Dương.
1. Có lẽ tác giả nhầm, vì tính đến năm 1951, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập mới được 6 năm (ND).
Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt
- Tác giả : Ngô Văn Phú
- Danh mục : Lịch sử