Chiến thắng bằng mọi giá

Chương 2 “Chúng tôi không biết phải đấu tranh như thế nào?”

<<Chương 1 “Trở thành nhà cách mạng” Chương 3 “Họ đặt hy vọng vào một sự nghiệp chung” >>

Chương 2 “Chúng tôi không biết phải đấu tranh như thế nào?”

Trong khi chàng trai trẻ Võ Nguyên Giáp đang băn khoăn tự hỏi có nên gia nhập Tân Việt hay không, thì những thay đổi lớn lao đang diễn ra trên khắp thế giới, làm đảo lộn cuộc đời ông trong nhiều thập kỷ tiếp theo. Kỷ nguyên của chủ nghĩa thực dân đã gần đến ngày tận số.

Các quốc gia châu Âu đã kiểm soát từng vùng rộng lớn của châu Á và châu Phi. Đến thập kỷ thứ hai của thế kỷ 20, cơ cấu hệ thống thuộc địa đó đã có những dấu hiệu suy yếu. Hàng triệu người Nhật quyết tâm xây dựng một xã hội hiện đại đã tận dụng thắng lợi trong cuộc chiến tranh Nga – Nhật (1904 - 1905) và đế quốc Nga đang bắt đầu lùi bước. Chẳng bao lâu cuộc cách mạng Nga lật đổ chế độ Sa hoàng và thành lập chính phủ mới do Vladimir Ulanov, được biết đến dưới tên Nikolai Lenin, đứng đầu. Phong trào cách mạng lan sang cả đất nước Trung Hoa rộng lớn. Năm 1911, Tôn Dật Tiên rời khỏi cuộc sống lưu vong ở Hawaii trở về nước, đem theo ý tưởng cách mạng.

Cuộc đại chiến thế giới (1914 - 1918) khiến các nước châu Âu suy yếu dần về mặt kinh tế và xã hội, đã vẽ lại bản đồ chính trị của châu lục. Ba Lan, Tiệp Khắc, Nam Tư và các nước Bắc Âu trên bờ biển Baltic cùng Phần Lan đã giành lại độc lập sau hàng thế kỷ bị nước ngoài đô hộ. Rất nhiều người dân các nước thuộc địa ở Á Đông và châu Phi tự hỏi: Tại sao chúng ta không thể giành được độc lập như nhiều nước châu Âu bị lệ thuộc? Có lẽ đây là lần đầu tiên họ bắt đầu ý thức rằng những người chủ của họ không phải là không thể đánh bại và họ bắt đầu ước mơ về tương lai đất nước không còn ách nô lệ nước ngoài.

Mối đe dọa tiềm tàng đối với hệ thống thuộc địa trở nên trầm trọng hơn vào năm 1919 khi Lenin thành lập Quốc tế Cộng sản thứ III (Comintern). Không dừng lại trước tình trạng hỗn loạn của xã hội nước Nga sau khi lật đổ chế độ Sa hoàng cũng như trước thắng lợi của cách mạng vô sản chưa thật bảo đảm chắc chắn, Lenin đã chuyên tâm vào việc lật đổ chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới cũng như tại các quốc gia ủng hộ chủ nghĩa tư bản. Vào cuối những năm 1920, những phái viên của Quốc tế Cộng sản (trong số đó có một chàng trai An Nam sau này rất nổi tiếng là Hồ Chí Minh, lúc ấy có tên là Nguyễn Ái Quốc) hoạt động lặng lẽ trong vòng bí mật, tuyên truyền giác ngộ nhân dân các nước thuộc địa cũng như các nước khác trên thế giới, cổ vũ họ nổi dậy chống lại chính quyền. Khi các dân tộc này chỉ mới đòi hỏi cải thiện chút ít điều kiện sống của họ thì người Hà Lan, người Pháp và người Anh đã phản ứng mạnh mẽ, ra sức tăng cường bộ máy đàn áp của họ ở các nước thuộc địa, những sợi dây đơn giản trói buộc dân bản xứ trở thành những đai thép để duy trì sự thống trị thuộc địa.

Ở An Nam, vua Khải Định mất ở tuổi 43 vào tháng 11/1925, chính là năm Võ Nguyên Giáp vào học Trường Quốc học. Rất nhiều người Việt Nam lên tiếng nhưng không phải đòi giành độc lập mà chỉ là yêu cầu cải thiện điều kiện kinh tế và thực hiện các điều khoản về chính trị đã được thừa nhận trong hiệp ước Harmand năm 1883. Người Pháp chọn thời điểm này để xiết chặt sự kiểm soát của mình với triều đình Huế. Họ muốn người thay thế Khải Định phải là Hoàng tử Bảo Đại, khi đó mới 12 tuổi và đang học ở Paris. Trong khi chờ đợi vị vua trẻ đủ tuổi trưởng thành để trị vì thì người Pháp sẽ cai trị đất nước dưới danh nghĩa nhà vua. Trong thời kỳ đó, viên Khâm sứ Pháp tại Huế ngạo mạn nắm trong tay những quyền lực cuối cùng còn sót lại của triều Huế, và phủ Khâm sứ đã sắp xếp để Bảo Đại tiếp tục học ở Paris 7 năm nữa.

Những hành động đó làm gia tăng mạnh mẽ tinh thần bài Pháp của người Việt Nam. Cuộc đại khủng hoảng kinh tế năm 1929 làm giá gạo – một nguồn lợi kinh tế quan trọng ở Nam Kỳ – sụt ghê gớm. Khó khăn và nghèo đói gia tăng. Những người Việt Nam, kể cả người theo chủ nghĩa quốc gia và người theo chủ nghĩa cộng sản, đã từng biết đến những hoạt động cách mạng của Tôn Dật Tiên và Mao Trạch Đông tại Trung Quốc và cũng phải đối mặt với những vấn đề của đại khủng hoảng kinh tế thế giới, bắt đầu tự tổ chức nhau lại.

Những người theo chủ nghĩa dân tộc lập ra các nhóm nhỏ tập hợp những trí thức đã hoàn toàn mất niềm tin, chỉ biết bàn tán mãi không ngừng về thời thế. Những người theo chủ nghĩa cộng sản hoạt động có nguyên tắc và xây dựng được nền tảng vững chắc hơn, họ tìm đến lực lượng to lớn hơn đó là những người nông dân không có ruộng đất và những phu đồn điền cao su, hầm mỏ. Điều kiện làm việc trong các đồn điền cao su chính là minh họa cho sự bóc lột dã man mà hàng triệu người Việt Nam phải chịu đựng dưới sự cai trị của các chủ đồn điền người Pháp. Phu đồn điền làm việc đến kiệt sức từ trước khi mặt trời mọc cho đến khi tối mịt trong các khu rừng mà không khí như đặc quánh lại cùng với hơi nóng. Bữa trưa của họ là chiếc cặp lồng dính cơm. Nước uống và nước họ dùng để nấu ăn lấy từ những con suối nước lợ, nhiễm khuẩn, đầy muỗi bọ. Bất kể lúc nào, ngày hay đêm họ cũng có thể bị đánh bởi tính khí thất thường của những cai phu – thường là người Việt Nam phục dịch cho Pháp.

Một công cụ mà cai phu thường dùng để đánh vào gót chân phu đồn điền là roi tre, sau khi đánh xong chúng bắt nạn nhân xấu số đó chạy cho tới khi gục ngã mới thôi. Cai có thể đánh phu đồn điền đến chết, và phu đồn điền đó có thể dễ dàng được thay thế với giá thuê rất rẻ mạt. Mỗi đồn điền là một tế bào độc lập, trong đó từ người hay gây rối đến người ôn hòa đều có thể bị đánh đập và ném ra ngoài. Phu đồn điền sống trong những căn nhà lá rách nát, vào những ngày mưa thì nước xối thẳng vào nhà và trong những khoảng trống chật hẹp đó, nhiều người phải ngủ ngồi, nhiều người run lên bần bật bởi những trận sốt rét. Với những bộ quần áo rách rưới, với những vết lở loét bao trùm khắp cơ thể gầy mòn, những phu đồn điền chịu đựng sự đau đớn từ ngày này qua ngày khác và họ đã nghe thấy những lời thì thầm bàn tán về một tổ chức bí mật mới, Việt Nam Quốc dân Đảng, bao gồm những người theo chủ nghĩa quốc gia và những người yêu nước làm việc tự do.

Việt Nam Quốc dân Đảng thành lập năm 1927 do Nguyễn Thái Học đứng đầu, theo mô hình đảng chính trị của Tôn Trung Sơn tại Trung Quốc. Sinh ra tại Đồng bằng Sông Hồng, Nguyễn Thái Học là nhà cải cách ôn hòa đầu tiên, nhưng ông đã trở nên giận dữ hơn bao giờ hết khi Pháp liên tục bỏ qua những yêu cầu chính đáng đòi thay đổi ở mức vừa phải. Việt Nam Quốc dân Đảng chủ trương theo con đường bạo lực đánh đổ chế độ thuộc địa và khôi phục nền độc lập của Việt Nam.

Những năm 1927 - 1929 chính là thời kỳ cậu học sinh Quốc học Võ Nguyên Giáp gia nhập tổ chức chính trị bí mật đầu tiên. Võ Nguyên Giáp biết có nhiều tổ chức chính trị bí mật đối lập nhau nhưng đều có chung mục tiêu là giành lại độc lập cho Việt Nam. Giáp cũng biết hoạt động của họ không mấy hiệu quả vì họ để quá nhiều thì giờ vào những cuộc tranh cãi triền miên, hội họp, thảo luận nhiều, nhưng các nghị quyết không bao giờ được đưa ra thực hiện. Và chính người bạn thân của Giáp là Nguyễn Chí Diểu đã tạo cơ hội để Giáp gia nhập đảng Tân Việt năm 1927.

Mặc dù là tổ chức không cộng sản, nhưng cương lĩnh của Tân Việt mang màu sắc Mác-xit rất rõ: trước hết là làm cách mạng quốc gia, sau đó làm cách mạng thế giới. Theo chỉ thị của trên, Võ Nguyên Giáp ở lại Huế bí mật hoạt động theo đường lối của đảng. Trong một năm, Tân Việt cũng chia ra nhiều phe phái và Giáp đi với phái có khuynh hướng cộng sản rõ ràng nhất. Ông tự cho mình có công tổ chức ra nhóm cộng sản trong Tân Việt. Ông viết: “Nguyễn Chí Diểu và tôi (Giáp) đặt nền móng đầu tiên cho chi bộ cộng sản trong Tân Việt”. Ông không đi theo các cuộc tranh luận triền miên mà hướng về tính tổ chức, tính kỷ luật và hoạt động có hiệu quả của một đảng cộng sản.

Phấn khởi với nhiệm vụ mới, Giáp hoạt động cho Tân Việt dưới vỏ bọc nhận giúp việc trong tòa soạn báo Tiếng Dân do Huỳnh Thúc Kháng sáng lập ở Huế. Đó là tờ báo quan trọng nhất ở Trung Kỳ theo xu hướng cải lương. Mặc dù Phòng Nhì theo dõi sát sao Huỳnh Thúc Kháng và những người làm việc cùng, kiểm soát chi ly từng dòng chữ trong mỗi bài báo nhưng vẫn để tờ báo hoạt động trong một thời gian.

Võ Nguyên Giáp lao vào công việc mới và nhanh chóng nắm bắt được các công đoạn của một tờ báo cũng như các ngóc ngách của nghề báo. Ông đọc mọi vấn đề, từ các bài bình luận về thời cuộc trên thế giới cho đến các bài phân tích về vấn đề xã hội. Ông sắp trang xếp mục một cách rất chu đáo tỉ mỉ, bỏ công sức tìm câu chữ chính xác phản ánh đúng những gì mình muốn nói.

Ông đã viết một bài điều tra về sự bóc lột tư bản chủ nghĩa Pháp ở Việt Nam có nhan đề Những xí nghiệp có vốn trên một triệu đồng. Bài báo bị nhà đương cục Pháp kiểm duyệt rất kỹ. Chính tư cách tác giả bài báo cùng cách thức kiểm duyệt đã có ảnh hưởng lâu dài đối với chiến thuật mà ông vận dụng sau này.

Võ Nguyên Giáp biết mình bị Phòng Nhì thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ và biết Phòng Nhì có thể chấm dứt công việc làm báo cũng như nhiệm vụ của mình với Tân Việt bất cứ lúc nào, nên để che giấu mọi hoạt động, Giáp dùng nhiều bút danh khác nhau khi ký tên vào các bài báo. Sau này ông nhớ được hai bút danh khi làm việc ở báo Tiếng Dân: Vân Đình và Hải Thanh. Ông tìm cách kéo dài thời gian làm việc ở tòa soạn báo Tiếng Dân, tránh mọi khó khăn với nhà cầm quyền, và nghe ngóng mọi tin đồn về quan hệ ngày càng căng thẳng ở Việt Nam giữa người dân và nhà cầm quyền thuộc địa. Ông cố nén lòng chờ đợi một ngày kia sẽ có lúc dòng máu cách mạng ào ào tuôn chảy.

Sắp đến ngày Việt Nam Quốc dân Đảng ấn định thời gian khởi sự cuộc nổi dậy năm 1930. Nguyễn Thái Học ra lệnh cuộc tiến công sẽ nổ ra đồng thời ở Hưng Hóa, Lâm Thao và Hà Nội, đòn đầu tiên sẽ nhằm vào một đồn binh đóng gần tỉnh lỵ Yên Bái trên một khúc quanh của sông Hồng cách Hà Nội một trăm cây số. Đây là một trong ba đồn lũy đóng trên núi, xung quanh có rừng che phủ và là đồn tiền tiêu của phòng tuyến bảo vệ miền đồng bằng sông Hồng chống lại sự xâm lược của Trung Quốc.

Nghĩa quân của Quốc dân Đảng trang bị vũ khí thô sơ, hy vọng có thể thuyết phục được số binh lính người Việt trong hàng ngũ đối phương sẽ giao nộp vũ khí cho nghĩa quân hoặc tốt hơn nữa thì đứng về phía nghĩa quân quay súng bắn vào bọn sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp. Cơ mưu bại lộ nên cuộc tiến công bị dập tắt ngay từ trước khi bắt đầu như dự định. Khi một vài quả đạn tự chế và được giấu kín phát nổ một cách ngẫu nhiên, nhà đương cục Pháp nhận ra cuộc khủng hoảng mình phải đối mặt, họ liền cho lùng bắt những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Thấy kế hoạch bị bại lộ, Nguyễn Thái Học gửi cho đảng bộ các nơi lệnh khởi nghĩa vào ngày 9/2/1930, sớm hơn dự định kẻo nếu cứ đợi đến đúng ngày khởi sự theo kế hoạch thì cơ sở đảng sẽ bị Pháp phá và bắt hết. Rồi ông lại thay đổi ý kiến hoãn đến 15/2. Các đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng ở Yên Bái không nhận được lệnh hoãn. Cuộc tiến công vẫn nổ ra một cách đơn độc trong lúc các nơi khác vẫn không động tĩnh gì vì đều nhận được lệnh hoãn đến ngày 15 trong tháng.

Đêm mùng 8 rạng ngày 9/2/1930, nghĩa quân Việt Nam Quốc dân Đảng tập hợp trong đêm tối bên ngoài thành phố Yên Bái, đầu quấn khăn lụa đỏ - vàng, đỏ là màu cách mạng, vàng là chỉ dân tộc Việt Nam, cánh tay đeo băng có đề chữ: Việt Nam cách mạng quân.

Rạng sáng ngày 9, lợi dụng binh lính trong đồn còn đang say giấc nồng, nghĩa quân nổ súng tiến công. Thiếu phối hợp với nội ứng của binh lính yêu nước người Việt trong quân đội Pháp và do sự kháng cự mãnh liệt của quân Pháp nên đồn không hạ được và nghĩa quân phải rút lui nhanh chóng. Quân Pháp tiến theo đường xe lửa xuôi sông Hồng để chặn đường rút của nghĩa quân nhưng cũng không ngăn được một số chạy thoát lẩn trốn về Hà Nội.

Tiếp theo là làn sóng khủng bố lùng bắt gắt gao tất cả những phần tử khả nghi, có cảm tình với mục tiêu của Việt Nam Quốc dân Đảng. Mấy ngày sau đó, Nguyễn Thái Học hạ lệnh tiến công vào một đồn Pháp ở nam sông Hồng nhằm hưởng ứng gây thanh thế hơn là nằm trong một kế hoạch đại quy mô lật đổ chính quyền thuộc địa. Lần đầu tiên ở Đông Dương một phi đội máy bay được huy động đối phó với nghĩa quân. Các phi công ngồi trên 5 chiếc Potez – 35 thả bom và bắn súng trường vu vơ vào những làng xóm khả nghi nằm chơ vơ giữa cánh đồng. Khi bay khỏi, chúng để lại trên 200 xác chết đàn ông, phụ nữ và trẻ em.

Sau đó ít ngày Nguyễn Thái Học bị bắt trong lúc ông đang tìm đường trốn sang Trung Quốc. Cùng với 12 đảng viên Quốc dân Đảng khác, giữa tháng 6 Nguyễn Thái Học bị giải lên Yên Bái và bị xử chém ở đó. Sau các cuộc khủng bố trả thù của Pháp, các cơ sở đảng hoàn toàn tan rã, những người sống sót lẩn trốn sang các tỉnh phía nam Trung Quốc họp thành một tổ chức “ma” cũng lấy tên là Việt Nam Quốc dân Đảng và mưu tính một cuộc trở về Việt Nam vào năm 1945 - 1946.

Cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại nhưng cuộc đàn áp của Pháp vẫn chưa kết thúc. Các đảng viên cộng sản xúc động trước tinh thần yêu nước đang lên sau cuộc nổi dậy của Việt Nam Quốc dân Đảng. Họ đã không bỏ lỡ thời cơ để lợi dụng tình hình này. Đảng hy vọng phá tan bộ máy chính quyền địa phương và thay thế bằng các nông hội Xô Viết do cộng sản lãnh đạo. Các đảng viên cộng sản kêu gọi nổi dậy, tiếp theo là các cuộc đình công trong các nhà máy và bạo loạn ở các đồn điền cao su. Nông dân hưởng ứng mạnh mẽ. Đối với họ không có gì tệ hại hơn là nạn đói đang đe dọa 1/3 số dân ở Trung Kỳ. Ngày 1/5/1930 những người “da vàng” do đảng viên cộng sản dẫn đầu giương cao ngọn cờ búa liềm đi biểu tình suốt các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi và phía bắc Trung Kỳ. Biểu tình nhanh chóng biến thành bạo loạn. Phong trào lan rộng ở các tỉnh Nam Kỳ: Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long và Kiên Giang.

Ở cả hai bên bạo lực bùng lên như một ngọn lửa. Người Pháp gọi thời kỳ này là “khủng bố đỏ” trong khi người Việt cả người theo chủ nghĩa quốc gia lẫn người theo chủ nghĩa cộng sản đều gọi là “khủng bố trắng”. Nông dân vác thuổng cuốc dao đi biểu tình đòi giảm thuế, trừng trị quan lại tham nhũng. Họ đốt các công đường của huyện, giết địa chủ và viên chức thân Pháp. Rất nhiều người phục vụ cho Pháp phải trốn về Vinh – thủ phủ tỉnh Nghệ An.

Trong rừng núi, trên đồng ruộng, tại các đồn điền ở Trung Kỳ, tình hình đều hỗn loạn. Suốt mùa hè và mùa thu năm 1930, người Việt giận dữ nổi lên làm chủ hàng trăm làng mạc Trung Kỳ, thành lập Xô Viết địa phương, tuyên bố giảm thuế, giảm tô, tịch thu ruộng đất chia cho dân cày không có ruộng hoặc thiếu ruộng. Họ xua đuổi các địa chủ tham lam khiến chúng không làm gì được hơn là phải bỏ trốn lẩn tránh nông dân nổi dậy. Một số người không gia nhập phong trào, phạm nhiều tội ác với nông dân hoặc ngoan cố chống đối đều bị trừng trị, tra tấn, nhổ răng, cắt mũi, đốt râu, cắt tai trước khi bị treo cổ xiết họng hoặc trôi sông.

Tháng 9 những người cộng sản tổ chức một cuộc biểu tình của nông dân không trang bị vũ khí kéo về thành phố Vinh để đưa yêu sách cải thiện điều kiện sống và yêu cầu công sứ Pháp giúp đỡ. Máy bay của không quân Pháp can thiệp, uy hiếp đoàn biểu tình, nhưng họ vẫn tiếp tục tiến bước trên con đường dẫn về thành phố Vinh giữa hai hàng cây và những thửa ruộng ngập nước. Đoàn người không nao núng, không chịu giải tán phải hứng chịu những chuỗi bom và súng liên thanh xả xuống. Những người sống sót chạy tán loạn không nơi ẩn nấp. Kết quả trận thảm sát làm 200 người chết và bị thương.

Ở cái thời mà những nhà cầm quyền không mảy may run sợ trước dư luận thế giới, người Pháp đã hành động nhanh chóng để diệt tận gốc sự uy hiếp của các phong trào quần chúng đối với chính quyền thuộc địa. Họ triệt hạ một cách có hệ thống các làng đã ủng hộ vật chất hoặc tài chính cho những người nổi dậy. Sau đó đến lượt quân lính tràn vào các làng xóm tan hoang giết nốt trâu bò, lợn gà còn sót lại, đốt phá các vựa thóc. Các lũy tre bao bọc quanh làng đều bị phá sạch và san phẳng.

Một nhân chứng kể lại: “Cái năm 1930 khủng khiếp đó, tôi là học sinh tiểu học trường làng, tôi còn nhớ đã nhìn thấy nhiều biểu ngữ Pháp dán trên tường khắp đường cái trong làng minh họa những người khởi nghĩa như những kẻ sát nhân đốt phá nhà cửa, chặt đầu trẻ em, hãm hiếp đàn bà con gái công khai giữa chợ.” Ngay cả những người có họ hàng xa với những người nổi dậy cũng bị kết án như kẻ phạm tội nặng, cấm không được đi làm, đi học. Chính quyền thuộc địa bỏ tù hoặc đày đi biệt xứ khoảng 70.000 người cả cộng sản lẫn quốc gia, xử tử 700 người khác không qua xét xử tại tòa dù chỉ là giả tạo. Cuộc khủng bố đàn áp dã man đó không làm Pháp bị thiệt hại gì. Chỉ có hai người Pháp bị thiệt mạng trong các cuộc bạo loạn. Trong có vài tháng, sức mạnh và hy vọng của những người theo xu hướng quốc gia của Việt Nam Quốc dân Đảng và những người cộng sản đã bị dập tắt.

Bộ phận chủ chốt trong ban lãnh đạo đảng đều bị bắt. Rất nhiều người bị bắt giam, đi đày hoặc xử tử. Nhiều cơ sở địa phương gần như bị triệt tiêu hoàn toàn. Số sống sót còn lại phải chuyển vào bí mật cho đến khi có phái đoàn của Mặt trận bình dân Pháp sang Đông Dương năm 1936. Một bài học mà nhiều người nhận ra là: nông dân các vùng nông thôn thật sự là một sức mạnh chính trị và quân sự tiềm ẩn đối với những ai muốn bảo vệ nhu cầu và lợi ích của họ và muốn sử dụng họ. Những người theo chủ nghĩa cộng sản đã biết rút ra bài học đó và đã vận dụng trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng những người theo xu hướng quốc gia thì không biết điều này.

Võ Nguyên Giáp tiếp tục cuộc sống “hai mặt”, ông không còn sự lựa chọn nào khác, vì cuộc khủng bố trắng của Pháp đã lan khắp nước. Trong lúc công khai làm việc nhiều giờ trong ngày cho báo Tiếng Dân thì ông cũng ngày càng tham gia sâu vào hoạt động bí mật của đảng Tân Việt. Đây là một cuộc sống khó khăn và nguy hiểm đối với một thanh niên mới vào tuổi 19. Giáp phải luôn luôn cảnh giác đề phòng, nhận ra bất kỳ ai theo mình để kịp thời đối phó. Ông biết mình là đối tượng điều tra của bọn nhân viên Phòng Nhì Pháp, bọn này không bỏ qua một chi tiết nào trong việc quan sát, theo dõi con mồi và báo cáo đều đặn lên đại bản doanh Sở Mật thám Đông Dương tại Hà Nội.

Đúng gần thời gian này, một nhân vật lạ lùng, như một cái bóng bước vào cuộc đời Giáp chỉ qua một mùa, cuối cùng đã đem đến cho ông một phần thưởng ngoài mong đợi. Người đó chính là trùm mật thám Louis Marty, Giám đốc Nha chính trị Sở Mật thám Đông Dương. Là một người kỳ cựu thông thuộc tình hình châu Á, nói thạo tiếng Hoa và tiếng Việt, Marty đến vùng này từ đầu thế kỷ 20 và đã phục vụ nhiều đời Toàn quyền Đông Dương kế tiếp với vai trò là giám đốc tình báo và an ninh. Mặc dù khá tàn bạo khi cần thiết, song Marty lại hy vọng rằng chính quyền Pháp ở Đông Dương sẽ tháo ngòi nổ thái độ chống Pháp của người Việt bằng cách khuyến khích “thực dân hóa bằng sách”, vì vậy ông tạo thuận lợi cho việc ấn hành các tác phẩm và báo chí bằng quốc ngữ hơn là bằng chữ Nho truyền thống. Trong số này có tờ Nam Phong do Phạm Quỳnh làm chủ bút một thời gian và Marty tin rằng những nỗ lực này sẽ cung cấp cho các trí thức Việt Nam, đặc biệt là lớp trẻ, về những lựa chọn cho các hoạt động chính trị có nguy cơ gây đe dọa sự ổn định của chế độ thực dân. Đó là chính sách “chinh phục người dân về tinh thần, sau khi chinh phục đất nước về vật chất.”

Trong văn phòng ở Hà Nội bên cạnh vườn Bách thảo, liền kề với văn phòng Phủ Toàn quyền Đông Dương, có lẽ Marty đã có đầy đủ hồ sơ về chàng thanh niên Võ Nguyên Giáp nhờ những tin tức do Martin, chánh cẩm thành phố Vinh cung cấp. Tại sao không? Đáng bỏ công để giám sát Giáp chặt chẽ, bởi đây là người đã từng cầm đầu đám học sinh Trường Quốc học Huế, đã thách thức Ban giám hiệu nhà trường, đã tham gia vào phong trào bãi khóa, đã thường xuyên đến thăm Phan Bội Châu, đã tham gia các cuộc tổng đình công phản đối hành hình các nghĩa quân Quốc dân Đảng sau vụ Yên Bái, đã viết những bài báo chỉ trích chính quyền thuộc địa. Chắc hẳn đây phải là một đảng viên của đảng Tân Việt và cũng có thể là đảng viên cộng sản. Vì vậy phải luôn để mắt tới nhân vật này.

Khoảng cuối năm 1930, trong các hoạt động nhằm ngăn chặn làn sóng phản kháng của đám trí thức trẻ, cảnh sát Pháp tiến hành hàng loạt vụ vây ráp trong xứ Trung Kỳ và tung mẻ lưới này để bắt một số đối tượng tình nghi: người làm công, thợ thuyền, trí thức, nông dân cả già lẫn trẻ. Trong số người bị bắt có Võ Nguyên Giáp và em trai là Võ Thuần Nho. Nhà đương cục cũng bắt một người quan trọng khác nữa, đó là Đặng Thai Mai, Giáo sư dạy văn chương Trường Quốc học, một trong số các giáo sư dạy Võ Nguyên Giáp, người bạn đường của Tân Việt. Pháp cũng bắt được Nguyễn Thị Quang Thái, một cô gái mới 15 tuổi, học sinh trường nữ học Đồng Khánh ở Huế. Giáp còn chưa biết Thái và chính trong những ngày cùng bị giam, họ đã quen biết và gắn bó với nhau.(1)

Ngoài Giáo sư Đặng Thai Mai, cảnh sát Pháp còn bắt nhiều giáo sư khác của Trường Quốc học, và sau vụ xét xử, phần lớn trong số họ bị kết án 6, 7 năm tù giam nhưng Giáo sư Mai chỉ bị kết án 4 năm tù, còn Nguyễn Thị Quang Thái chịu hình phạt 3 năm. Ban đầu Võ Nguyên Giáp bị kết án 2 năm án treo vì ông đã đủ thận trọng trong hoạt động nên người ta chỉ thu thập được ít chứng cớ. Nhưng công tố viên đã can thiệp để 2 năm án treo trở thành 2 năm tù khổ sai.

Trong câu chuyện kể về đời ông, Đại tướng Võ Nguyên Giáp im lặng không nói đến thời gian hai năm 1930 - 1932. Ông bị giam, còn gì khác để mà nói. Người em trai Võ Thuần Nho, Quang Thái và Giáo sư Đặng Thai Mai hiểu rằng họ phải đưa lên thụ án ở nhà tù Lao Bảo(2) trong vùng rừng núi sát biên giới với Lào. Tuy nhiên, họ lại là những người may mắn. Nhiều người lên đấy rồi không trở về nữa. Ngay cả những tù nhân có thể chịu được những biện pháp kỷ luật khắc nghiệt tại Lao Bảo nhưng lại bỏ xác vì nạn sốt rét hoành hành.

Tuy nhiên đối với Giáp, bị giam ở đây không phải chỉ đem lại nỗi ưu phiền vô vọng. Trong nhà tù Lao Bảo, Giáp đã có cơ hội tìm hiểu Quang Thái kỹ hơn. Lớn hơn Quang Thái 4 tuổi, Võ Nguyên Giáp thấy cô gái có duyên và sớm nhận ra bản chất của những tình cảm quyến luyến của mình đối với cô gái. Mười ba tháng sau khi bị giam trong nhà lao, Giáp được tin chính quyền thuộc địa đã quyết định giảm án cho những ai bị kết án dưới 4 năm. Những ai được tha trước thời hạn đều phải trở về quê quán chịu quản thúc cho đến khi mãn hạn tù. Giáp cảm thấy thực sự vui mừng khi cùng với Thái bước qua ngưỡng cửa nhà giam năm 1932.

Đáng lẽ phải tuân lệnh trở về An Xá, nhưng Giáp quay về Huế. Tại đây, Giáp trở lại với bổn phận đối với đảng Tân Việt và hy vọng tìm lại được chỗ làm việc ở tòa soạn báo Tiếng Dân. Nhưng về Huế được vài ngày, viên Khâm sứ Trung Kỳ nhận thấy Giáp đã vi phạm điều lệ tha bổng, nên buộc Giáp phải rời khỏi Huế và trở về An Xá.

Khi trở về nhà, Giáp quyết định ngay lập tức là phải đến thành phố Vinh. Lý do của sự lựa chọn đó là ông cần một chỗ làm và hy vọng sẽ tìm được việc làm ở đây. Giáo sư Đặng Thai Mai cũng vừa ra khỏi nhà tù, được phép trở về Vinh sinh sống. Giáp hy vọng sẽ được Giáo sư Mai giúp đỡ bằng cách này hay cách khác. Quan trọng hơn là tại Vinh có gia đình cụ Nguyễn Huy Bình là cha đẻ của Nguyễn Thị Quang Thái. Vốn quê gốc ở Hà Đông(3), cụ Bình làm việc trong ngành đường sắt tại nhà ga Vinh. Hai người con nhỏ nhất của cụ là Nguyễn Thị Minh Khai, sinh năm 1910 và Nguyễn Thị Quang Thái sinh năm 1915.(4)

Giáp đến Vinh được Giáo sư Mai cho ở nhờ và lần đầu tiên Giáp biết 6 người con của ông, trong số đó có Đặng Bích Hà sinh năm 1929, kém ông 18 tuổi(5). Năm đó, 1932, cô bé đang còn lon ton chạy trong nhà, coi Giáp như em út của cha mình và thường gọi Giáp bằng chú.

Ít lâu sau, Võ Nguyên Giáp tìm được chân kế toán cho một hiệu buôn ở phố Thống chế Foch, ông còn mở lớp dạy toán và tiếng Pháp. Một thời gian ngắn sau đó, Giáp nhận ra rằng nhà ông Bình cách không xa nhà Giáo sư Mai. Và Quang Thái trở thành một trong số những học trò của ông. Theo thời gian tình cảm của ông đối với cô học sinh ngày càng trở nên thắm thiết.

Giáp đã biết chị gái của Quang Thái là Nguyễn Thị Minh Khai hơn Giáp gần một tuổi. Mặc dù cả hai cô con gái ông Bình đều là những người hoạt động cách mạng, đều muốn ách thống trị thực dân sớm chấm dứt nhưng Minh Khai xem ra sớm có tinh thần cách mạng hơn. Cô bắt đầu dấn thân vào con đường cách mạng khi còn là một nữ sinh trường trung học Cao Xuân Dục ở Vinh. Năm 1926, khi mới 16 tuổi, Minh Khai đã cùng bạn bè tham gia các buổi lễ tưởng niệm nhà yêu nước Phan Chu Trinh. Trong lúc Minh Khai tham gia biểu tình ở Vinh thì Giáp cũng làm như vậy khi còn đang học Trường Quốc học Huế.

Năm 1927, cả Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Thị Minh Khai đều xin gia nhập đảng Tân Việt và cả hai đều hướng về cánh có tính chiến đấu trong đảng. Nhận ra phẩm chất lãnh đạo của Minh Khai, các đồng chí đã bầu cô vào ban chấp hành đảng bộ tỉnh. Hoạt động chính trị đã thu hút toàn bộ sức lực, tâm huyết của cô. Mùa hè năm 1930, chỉ mấy tuần trước khi Giáp bị bắt ở Huế, Minh Khai đã đáp tàu đi Hồng Kông. Tại đây cô làm việc cho Ban Á Đông của Quốc tế Cộng sản. Thỉnh thoảng cô trở về Vinh, rồi lại rút vào hoạt động bí mật. Cô ở nhà vài ngày trước khi lại trốn sang Hồng Kông.

Minh Khai có thể coi là người phụ nữ có đầu óc phóng khoáng nhất thời bấy giờ. Cô thích thể thao, kể cả bơi lội, hoạt động ít thấy ở phụ nữ Việt Nam thời đó. Cảnh sát Anh bắt cô ở Hồng Kông ngày 29/4/1931 về tội hoạt động chính trị và cô bị tù giam đến năm 1932. Các nhà đương cục Anh giao cô cho nhà đương cục Trung Hoa ở Quảng Châu và cô tiếp tục bị giam ở đây cho đến năm 1934. Trong một thời gian ngắn trở về Vinh, Minh Khai lại trở lại Hồng Kông. Tại đây cô gặp Lê Hồng Phong là người sau này cô đã kết hôn. Ít lâu sau cô đến Matxcova theo học lớp đào tạo chính trị tại trường Đại học Phương Đông.

Tháng 7/1935, Minh Khai tham gia đoàn đại biểu Việt Nam tại Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản tại Matxcova. Cuối cùng cô trở lại Việt Nam năm 1937 và hoạt động ở Sài Gòn cùng với Lê Hồng Phong và tại đây họ đã nên duyên vợ chồng. Minh Khai cũng đảm nhiệm công tác liên lạc giữa Đảng bộ Vinh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hà Nội. Tháng 9/1939, cảnh sát Pháp càng ngày càng xiết chặt vòng vây và một lần nữa cô chuyển vào hoạt động bí mật. Dù cô thường xuyên trong tình trạng phải lẩn trốn, nhưng những hoạt động chính trị đã tạo cơ hội cho Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Thị Minh Khai gặp nhau nhiều lần, bắt đầu từ năm 1937 cho đến 1940, là năm Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc hoạt động.

Cô em gái Nguyễn Thị Quang Thái cũng bị những hoạt động của Minh Khai cuốn hút. Quang Thái hoạt động tích cực đến mức cảnh sát Pháp phải mở hồ sơ về cô khi cô chưa đầy 15 tuổi. Được Võ Nguyên Giáp ủng hộ, cô càng hoạt động tích cực. Năm 1933, Giáo sư Đặng Thai Mai ra Hà Nội nhận chức Hiệu trưởng Trường tư thục Thăng Long. Giáp quyết định ra Hà Nội với gia đình giáo sư, để lại Quang Thái ở Vinh. Trước khi ra đi, Giáp còn hứa là không bao giờ quên cô. Sau này tại thủ đô Bắc Kỳ, Võ Nguyên Giáp tiếp tục sống trong gia đình giáo sư Đặng Thai Mai.

Louis Marty, Giám đốc Sở Mật thám theo dõi Giáp từ lâu, giờ đây có mối quan tâm mang tính cá nhân nhiều hơn đối với Giáp và tìm cách giúp Giáp tiếp tục việc học. Không ai có thể thấy được những bí mật trong thời kỳ này. Được hỏi, Võ Nguyên Giáp bao giờ cũng từ chối bình luận về Marty.

Dù hoàn cảnh thực tế như thế nào, Marty đã biết được rất rõ về con người hoạt động cách mạng trẻ tuổi vừa xuất sắc vừa gây tranh cãi đó. Rất khó để có thể giải thích lý do tại sao Marty lại đối xử “tốt” với Võ Nguyên Giáp như vậy. Có lẽ Marty chỉ nghĩ đơn giản rằng cai trị một thuộc địa có những người sẵn sàng hợp tác dễ hơn cai trị một thuộc địa có nhiều người đối kháng. Có lẽ ông ta nghĩ rằng không nên bỏ rơi một con người có tư chất thông minh thiên phú, con đường công danh rộng mở, một con người có thể phục vụ tốt cho nước Pháp sau này còn hơn là biến người đó trở thành đối thủ công khai của mình? Đối với Marty, Giáp hình như biết thuộc bài và bây giờ là lúc nên thuần hóa, vô hiệu hóa chàng trai trẻ. Có thể là phần mình Giáp đã làm dịu đi mối nghi ngờ của chính phủ Pháp đối với những ai có thể uy hiếp sự thao túng của Pháp ở Đông Dương. Võ Nguyên Giáp có lẽ không phải là người Việt đầu tiên được “phục quyền”. Nhưng Marty đã phạm sai lầm lớn nhất trong sự nghiệp của mình khi chìa bàn tay cho Giáp. Với hành động đó, ông ta đã góp phần khai tử nền cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam.

Trong nhiều cuộc gặp gỡ diễn ra trong năm 1933, Marty khuyến khích Võ Nguyên Giáp nên tự học và chuẩn bị thi lấy bằng tú tài phần thứ nhất. Như vậy, Giáp sẽ có một tấm bằng được bảo đảm. Nếu Võ Nguyên Giáp đỗ tú tài, Marty nói ông ta sẽ ủng hộ để Giáp được vào trường trung học nổi tiếng tại Hà Nội là Trường Albert Sarraut, lấy tên một trong những vị toàn quyền tiến bộ nhất gần đây (1911 - 1914, 1917 - 1919). Hầu hết các trí thức Việt Nam đều học tại Hà Nội. Đó là trung tâm của hoạt động trí thức. Trường Trung học Albert Sarraut là trường tốt nhất, không phải nói gì hơn nữa.

Có hai trở ngại đối với đề nghị của Marty: một trong những điều cấm mà quy chế của Pháp áp đặt cho người Việt là ngăn cấm đa số thanh niên học lên bậc đại học, cao đẳng, không cho xin việc bằng thi tuyển ở các cơ quan chính phủ. Người Pháp khẳng định những điều cấm đó là cần thiết để tránh cho các trường học bị quá tải và để cho những kẻ phá rối không gây khó cho chính quyền thuộc địa. Đây là một đặc ân ngay cả với những gia đình thân Pháp khi đột xuất nhận được hộ chiếu cho phép con em họ sang Pháp du học.

Cả Bắc Kỳ chỉ có một nơi học sinh có thể thi lấy bằng tú tài, đó là Hà Nội. Ở Trung Kỳ, sau năm 1937 chỉ có ở Huế. Và đa phần số người đăng ký dự thi đều trượt. Tại Huế năm 1943, trên ba nghìn học sinh dự thi thì chỉ có 61 người đỗ.

Trở ngại thứ hai là, dưới chính quyền thuộc địa người ta không bao giờ dành cho những kẻ gây rối người Việt còn ít tuổi có được cơ hội thứ hai. Nếu họ bị đuổi khỏi trường thì con đường học tập của họ coi như chấm dứt. Họ không còn trông cậy vào đâu. Nếu Võ Nguyên Giáp muốn học cao hơn nữa thì bắt buộc phải có sự giúp đỡ, và Marty rất sẵn sàng.

Trong khi học tập, Võ Nguyên Giáp cũng cần tìm một công việc nhỏ để đủ tiền nuôi sống mình. Trong một thời gian, Võ Nguyên Giáp làm trợ lý nghiên cứu cho Pierre Gourou – một nhà địa lý người Pháp quan trọng bậc nhất ở Đông Dương lúc bấy giờ. Ông là tác giả nhiều bộ sách quý như Người nông dân đồng bằng Bắc BộNông nghiệp trong xứ Đông Dương thuộc Pháp. Khi Giáp được giải phóng mọi nghĩa vụ, ông lao tâm vào học. Và ông qua các kỳ thi tú tài một cách dễ dàng. Ông xin vào học Trường Albert Sarraut ở Hà Nội và với sự ủng hộ của Marty, ông được nhập học ngay.

Phải chăng đối với Marty, đó là một sự “cho và nhận”? Có thể nghĩ như thế lắm. Tại Sở Lưu trữ Đông Dương có một tài liệu đánh máy kỳ lạ không đề ngày tháng (chỉ được lưu vào năm 1972) và người ta không rõ gán cho ai tài liệu này (nó phải là một phần của một tập tài liệu dày hơn bởi vì ba trang có liên quan đều được đánh số 14, 15 và 16). Tài liệu này nêu những việc nổi bật trong cuộc đời của Võ Nguyên Giáp, trong đó viết là từ năm 1936 đến 1939, Giáp “hành động như một người trung gian của Đảng Cộng sản Đông Dương […] ở Hà Nội khi ông Giáp tiếp xúc với Marty, Giám đốc Chính trị của Sở Mật thám Đông Dương”. Không có một chỉ dẫn nào khác về tính chất các cuộc tiếp xúc đó hoặc những cuộc tiếp xúc đó là cần thiết cho ai?

Marty đã thu được gì qua các cuộc tiếp xúc đó? Có thể là tin tức về các kế hoạch, chính sách, hay các thành viên của đảng kình địch với Đảng Cộng sản Việt Nam. Thế còn Võ Nguyên Giáp tìm được gì? Không chỉ là thuận lợi về con đường học tập. Một giáo sư Việt Nam đã gợi ý với Giáp “bằng sự thông minh và khôn khéo hãy đánh lừa con cáo già Marty bằng cách vận dụng chiến thuật tương kế tựu kế làm Marty tưởng là đã lừa được Giáp để đến lượt mình cho đối phương vào bẫy. Hãy sử dụng người đỡ đầu của mình để đến một lúc nào đó, có thể đạt được mục tiêu của mình dễ dàng hơn.”

Dù thế nào, hình như Võ Nguyên Giáp đã có cuộc sống khá an toàn vào cuối những năm 1930 trong lúc những người khác đang thật sự lâm nguy. Xung quanh ông, nhiều đảng viên, nhiều đồng chí bị bắt hoặc phải đi đày biệt xứ, bị giam giữ nhiều năm tại những địa ngục trần gian nổi tiếng như Côn Đảo, thậm chí lên máy chém. Những quan hệ của ông với trùm mật thám Marty đã chấm dứt năm 1939, khi nổ ra Chiến tranh thế giới lần thứ hai.

Tháng 9/1932, là năm Võ Nguyên Giáp ra khỏi nhà tù, cũng là năm người Pháp cho phép Thái tử kế nghiệp Bảo Đại từ Paris trở về Việt Nam và làm lễ tấn phong hoàng đế cho ông. Mới 18 tuổi, Bảo Đại cảm thấy hoàn toàn lạc lõng giữa triều đình. Ông hoàn toàn xa lạ với việc trị vì. Hoàng Thái hậu đối xử rất nghiệt ngã và độc đoán, được thực dân Pháp mệnh danh là “hổ cái”. Bảo Đại cảm thấy suy sụp về tinh thần và bắt đầu tổ chức những cuộc đi săn đơn độc, dài ngày trong rừng. Tuy nhiên, nhà vua cũng quyết tâm khôi phục một vài quyền tự chủ còn sót lại và tiến hành cuộc cải cách nhỏ thật sự cần thiết. Trong lúc Giáp học để thi tú tài và hy vọng vào Trường Albert Sarraut thì nhà vua đi những bước đầu tiên của công cuộc cải cách. Không có quyền lực, cô đơn và hụt hẫng nhưng ông tỏ ra độc lập suy nghĩ khiến người Pháp phải ngạc nhiên. Họ tưởng đã nhào nặn được ông thành một vua ngoan ngoãn chỉ biết cúi đầu tuân lệnh trước khi để ông trở về trị vì.

Bảo Đại không phải con người có tinh thần đấu tranh, ông hy vọng có thể thúc đẩy liên minh Pháp - Việt trên cơ sở hiệp ước 25/8/1883 nhưng rốt cuộc ông không thuyết phục được người Pháp cũng như không thu phục được nhân tâm trong nước. Ông ban “dụ” khi vào chầu ở điện Thái Hòa, các quan không phải sụp lạy. Theo truyền thống, các hoàng đế rất ít tiếp xúc với dân. Phần lớn người dân chỉ nhìn thấy vua qua các tấm ảnh chân dung. Bảo Đại có tính rụt rè, ông muốn xóa bỏ những nghi thức rườm rà và muốn gần gũi hơn với nhân dân. Ngoài việc xóa bỏ việc quỳ lạy của các quan khi vào chầu, ông cũng xóa luôn chế độ “nạp phi” (chọn gái đẹp trong dân gian làm cung tần mỹ nữ), và chọn ra một nội các mới trong đó lần đầu tiên có một người không phải là quan lại.

Ông tỏ ý tức giận khi thấy lương trả cho người Việt giữ chức quan trọng không bằng những viên chức Pháp. “Người đứng đầu một tỉnh như người anh của Ngô Đình Diệm ở tỉnh Quảng Nam lĩnh lương không bằng một cảnh sát Pháp ở Hà Nội,” ông viết. Đó là chuyện thường tình ở Việt Nam thời đó. Dù là quân nhân hay dân sự, người Pháp sang Đông Dương là một cơ hội cải thiện đời sống và làm giàu, như ở chính quốc người ta truyền cho nhau câu ngạn ngữ “phải là con Tổng giám mục mới được bổ nhiệm sang Đông Dương”.

Trường hợp Hoàng Xuân Hãn là một ví dụ. Ông tốt nghiệp trường Bách khoa ở Pháp, sau đó là Bộ trưởng Giáo dục Việt Nam. Trong những năm 1930, ông là giáo sư khoa học ở Trường Albert Sarraut tại Hà Nội. Có bằng cấp, có trình độ chuyên môn giảng dạy như vậy mà lương của ông chỉ bằng một nửa người Pháp gác cổng ở ngay trong trường chỉ có bằng sơ học (Brevet Elementaire)(6). Không có gì đáng ngạc nhiên khi Bảo Đại muốn chấm dứt cách đối xử bất công đó. Sau 18 tháng đối mặt với sự cứng rắn của người Pháp, Bảo Đại cảm thấy mất hết hy vọng.

“Tất cả đều hão huyền,” ông viết, “bây giờ tôi mới hiểu rằng những người theo chủ nghĩa quốc gia có lý. Và không phải chỉ có một mình tôi nghĩ như vậy. Ngay ở Pháp cũng có nhiều người chia sẻ ý kiến với tôi”. Mới đây, ông nói: “Tôi đã đọc thấy câu của André Malraux: Khó mà quan niệm rằng một người Việt Nam can đảm lại không đi theo cách mạng”. Bảo Đại nhớ lại Phạm Quỳnh - Bộ trưởng Giáo dục của ông, đã viết 10 năm trước: “Người Việt Nam cảm thấy như là người nước ngoài điều chỉnh đất nước của họ”. Chính Bảo Đại cũng có những phản ứng bực bội như thế: “Tôi cũng cảm thấy điều đó”, ông viết trong một chuyến du hành ra miền Bắc, “tôi như một vị quân vương ngoại quốc. Đó là vì người Pháp đã đặt tôi vào hoàn cảnh như vậy. Tôi sống trong nước tôi mà như một nhà vua nước ngoài đi đày ở xứ này, cũng như các tiên đế trước đây. Nhưng đi đày ở trong chính nước mình, trong lòng nhân dân nước tôi cũng đang bị ở tình cảnh đi đày”.

Trong lúc Hoàng đế Bảo Đại vật lộn để có một chút ảnh hưởng dù nhỏ nhoi đối với chính sách thuộc địa của người Pháp thì Võ Nguyên Giáp được Marty động viên, khuyến khích chuẩn bị vào học Trường Albert Sarraut. Năm 1933, ông đỗ tú tài phần thứ nhất [tức tú tài đại cương - ND]. Ông nghĩ đến đỗ cho được tú tài toàn phần.

Phần lớn chỗ học ở năm cuối cùng của Trường Albert Sarraut là dành cho con em những công chức thực dân người Pháp. Còn thanh niên Việt Nam muốn vào thì phải qua một kỳ thi tuyển đặc biệt. Khi Ban giám hiệu nhà trường thông báo còn một số chỗ cho thí sinh tự do, Võ Nguyên Giáp liền đệ đơn dự thi và ông đã đỗ. Ông cũng nhận được sự giúp đỡ của một Giáo sư đại học Hà Nội, đảng viên lâu năm của Đảng Cộng sản Pháp tên là Marcel Ner để được miễn lệ phí nhập học. Được hỏi về quá trình của Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào chống đối của học sinh, Ner đã thay mặt Giáp xin lỗi vì lầm tưởng rằng làm như thế là đi theo lý tưởng của cách mạng Pháp năm 1789, có trong chương trình giảng dạy trong các nhà trường của Việt Nam.

So với những sinh viên có thái độ phản đối chính sách thống trị của người Pháp, Võ Nguyên Giáp đặc biệt nổi bật, ông quyết tâm hơn ai hết trong số bạn cùng học với ông, đấu tranh cho tự do, nhưng việc ông tham gia đảng Tân Việt, những rắc rối trước đây với Phòng Nhì và thời gian ở tù đã dạy ông khá nhiều điều. Ông biết phải khép mình vào kỷ luật như thế nào, che giấu cảm xúc ra sao, làm thế nào để tránh đụng phải các vấn đề gây rắc rối. Không có một yếu tố nào khiến ta nghĩ rằng khi ông học ở Trường Albert Sarraut, Phòng Nhì đã đặc biệt để ý đến ông. Bề ngoài ông học tập chăm chỉ, tỏ ra là một người ngoan ngoãn. Miệt mài học tập khiến ông nhanh chóng đứng đầu lớp, ban Triết học. Một học sinh của của Trường Albert Sarraut, Nguyễn Đình Tú nhớ lại: “Vượt qua được trở ngại ban đầu là thi đỗ vào trường, chúng tôi còn phải viết tiểu luận bằng tiếng Pháp để được đánh giá trình độ học vấn và chính tả nữa. Sau đó là phải giải các bài toán. Cuối cùng là một bài thi hát bằng tiếng Pháp… Tôi chỉ nhớ lờ mờ có một bài.” Ông Tú cười khi nhớ lại chuyện cũ: “Một ngày thi viết, một ngày thi vấn đáp. Ban giám khảo toàn người Pháp.”

Ông Tú năm nay đã 80, nhớ lại tất cả chỉ có hai người Việt Nam được vào học trong số 1.000 người dự thi tuyển vào Albert Sarraut đầu những năm 1930.

“Các lớp học buổi sáng từ 7 giờ 30 phút đến 11 giờ 30 phút và buổi chiều từ 14 giờ 30 phút đến 17 giờ 30 phút. Các học trò học “gạo” lắm nhưng chúng tôi vẫn có thì giờ đi “bát” phố (theo lối nói bây giờ gọi là học rất chăm những vẫn có thì giờ đi dạo phố), cùng ngồi với nhau bên vệ cỏ bờ hồ Hoàn Kiếm, tổ chức các đội bóng đá và thi đấu với nhau.” Và ông còn dành thời gian để suy nghĩ về đất nước mình. “Tôi luôn luôn nghĩ đến ngày đất nước thoát khỏi sự thống trị của người Pháp. Nhiều bạn học chia sẻ ý kiến này với tôi. Có cả những bạn học các trường khác thường ngồi với nhau bàn bạc chiến đấu thế nào để giải phóng đất nước. Ý tưởng chính của chúng tôi là yêu nước như thế nào. Chúng tôi thường nói với nhau những đề tài ấy bên ngoài nhà trường. Chúng tôi nói theo cách riêng của bọn học trò chúng tôi. Chúng tôi còn non nớt, thơ ngây lắm, không biết phải chiến đấu như thế nào”. Đó là những lời than vãn nói lên tình cảnh chung của mọi người hoạt động cách mạng ở Việt Nam. Quả thật họ không biết phải chiến đấu ra sao.

Khoảng cuối năm 1934, Giáp đỗ tú tài phần thứ hai hay còn gọi là tú tài toàn phần. Có được bằng cấp nên không phải mất nhiều thì giờ để kiếm việc làm. Ông đã xin được một chân dạy Lịch sử và Pháp văn ba giờ một ngày tại Trường tư thục Thăng Long. Trường này do Huỳnh Thúc Kháng làm hiệu trưởng(7). Trường Thăng Long thực sự là nơi hun đúc tình cảm yêu nước và hoạt động cách mạng, tạo cho Giáp niềm say mê háo hức. Có việc làm, có thu nhập, ông muốn tiếp tục học lên nữa. Càng ngày ông càng cảm thấy đảng Tân Việt hoạt động thiếu kỷ luật, ông không còn hăng hái với hoạt động của Tân Việt và ngày càng quan tâm hơn đến chủ nghĩa cộng sản thuần túy. Ông muốn biết nhiều hơn về kinh tế và chính trị. Vì vậy, ông xin vào học khoa Luật Trường Đại học Hà Nội và được nhận vào học. Nhưng công việc dạy học ở trường Thăng Long và việc học ở khoa Luật chưa thỏa chí. Ông cho xuất bản tờ báo riêng của ông. Ít lâu sau ông thấy quá bận rộn vì công việc mà trước đây ông không thể tưởng tượng nổi.

  • 1. Thực ra Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Thị Quang Thái đã quen nhau từ trước. Năm 1928, lần đầu tiên hai người gặp nhau khi Quang Thái đến nhờ Võ Nguyên Giáp giới thiệu vào hoạt động trong phong trào học sinh ở Huế (BT).
  • 2. Võ Nguyên Giáp, Đặng Thai Mai, Võ Thuần Nho, Nguyễn Thị Quang Thái bị giam tại nhà lao Thừa Phủ - Thừa Thiên Huế, chứ không phải nhà tù Lao Bảo ở Quảng Trị (BT).
  • 3. Quê gốc của gia đình cụ Nguyễn Huy Bình ở làng Mọc, Nhân Chính, Hà Nội (BT).
  • 4. Nguyễn Thị Minh Khai là con cả, Nguyễn Thị Quang Thái là con thứ trong gia đình có 8 người con (BT).
  • 5. Bà Đặng Bích Hà sinh năm 1928, kém Đại tướng Võ Nguyên Giáp 17 tuổi (BT).
  • 6. Tương đương với tốt nghiệp trung học cơ sở của Việt Nam hiện nay (ND).
  • 7. Có lẽ tác giả nhầm, Hoàng Minh Giám làm hiệu trưởng Trường tư thục Thăng Long (BT).
<<Chương 1 “Trở thành nhà cách mạng” Chương 3 “Họ đặt hy vọng vào một sự nghiệp chung” >>

Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Cờ lau dựng nước

Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt