Chiến thắng bằng mọi giá
Chương 4 “Không mềm, không ấm”
PHẦN HAI Hà Nội 1941 - 1946
Chương 4 “Không mềm, không ấm”
Buổi sáng thứ Hai, khi học sinh tập hợp trước giờ vào lớp ở Trường Thăng Long, học trò của thầy Giáp ngạc nhiên không thấy ông đâu. Trong hành lang, từng nhóm học sinh bị kích động mạnh, xì xào kể lại cho nhau nghe những tin đồn về sự ra đi đột ngột của ông. Một vài người rỉ tai cho nhau nghe tin đồn có máy bay Nga đã đến đón ông. Một vài người khác tin rằng ông ra đi để chỉ huy một đội quân Trung Quốc mới ở vùng biên giới Việt - Trung. Một sự giải thích được nhiều người tán đồng: Ông trốn lên vùng núi ở biên giới Việt - Trung để tránh bọn Phòng Nhì. Được an toàn trong vùng núi hoang sơ này, Võ Nguyên Giáp sẽ tổ chức “hoạt động du kích” chống lại bọn Pháp mà mọi người chán ghét lắm rồi. Giải thích thế là đúng nhưng hãy còn quá sớm.
Sau khi chia tay với Quang Thái và Hồng Anh trên đường Cổ Ngư, Võ Nguyên Giáp vội vã rảo bước đi xa dần. Đến chỗ hẹn, một phu kéo xe tên là Minh, người của tổ chức bí mật chạy theo một quãng. Võ Nguyên Giáp nhanh chóng bước lên xe, ngồi lọt thỏm trong thùng xe và Minh kéo xe đi loanh quanh, vòng vèo một đoạn rồi lên thẳng Chèm ở ngoại ô, một nơi an toàn để qua đêm. Ở đó Võ Nguyên Giáp gặp Phạm Văn Đồng và một đồng chí nữa lo tổ chức chuyến đi. Họ phải tách ra đi riêng từng người một và không mang theo hành lý. Hôm sau Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp ra ga Đầu Cầu lấy vé đi Lào Cai, thị xã biên giới trên đường đi Côn Minh ở Trung Quốc để gặp Nguyễn Ái Quốc.
Chuyến đi của hai người sang Trung Quốc thật mạo hiểm. Nguy hiểm ở chỗ máy bay Nhật hồi này oanh tạc dữ dội tuyến đường sắt được xây dựng thời toàn quyền Paul Doumer cai trị từ năm 1897 đến 1902. Đường ray đi dọc theo thung lũng sông Hồng xuyên qua nhiều núi cao miền thượng du Bắc Kỳ, có ngọn cao tới 3.000 m. Lúc này đang mùa mưa, con sông đổ ra sông Hồng đầy nước, lũ sông Hồng bắt đầu dâng lên, nước cuồn cuộn chảy, đục ngầu, mấp mé thành cầu. Thường thường cảnh sát hay lên tàu xét hỏi giấy tờ, truy lùng những kẻ vượt biên giới trốn sang Trung Quốc. Vì vậy, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp phải hai lần xuống tàu rồi lại lên, tránh mặt bọn cảnh sát đứng ở sân ga và bậc lên xuống nhìn chằm chặp vào khách đi tàu để phát hiện những cặp mắt lo âu sợ hãi hay hoảng hốt. Hai người xuống cách Lào Cai một ga rồi lại tiếp tục đi bộ lên biên giới. Trước khi đến Lào Cai, hai người vượt qua sông Nậm Ti bằng mảng làm bằng những cây nứa ghép lại ở một bến vắng vẻ. Cuối cùng họ đã đặt chân lên đất Trung Quốc, đoạn đường cuối cùng của chuyến đi cũng không kém phần nguy hiểm so với đoạn đầu tiên. Họ lại đi về phía đường sắt đón tàu đi Côn Minh. Võ Nguyên Giáp nhớ lại cứ mỗi lần nhìn thấy nhân viên đường sắt hay bọn mật thám lên tàu tra xét giấy tờ từng người một trên toa, hai người lại phải lẩn tránh đôi mắt cú vọ của chúng. Cuối cùng họ đã đến Côn Minh.
Một đảng viên của đảng bộ Côn Minh đón họ ở phía ngoài ga xe lửa và dẫn họ đến nhà một cơ sở người Việt và dặn họ đợi ở đây, đồng chí Vương sẽ đến gặp. Tuy người ấy không cho biết rõ lai lịch đồng chí Vương là ai nhưng Võ Nguyên Giáp đoán chắc đó là Nguyễn Ái Quốc và rất nóng lòng được hội ngộ. Số lượng người Việt làm ăn sinh sống ở Côn Minh khá đông, Võ Nguyên Giáp có thể hòa nhập dễ dàng với họ mà không bị ai để ý. Ông cũng chỉ là một người Việt như bao người khác. Lực lượng Trung Hoa Quốc dân Đảng thì quá bận bịu với sự xâm lược của Nhật, chẳng còn hơi sức đâu mà truy lùng những người cộng sản Việt Nam được che giấu trong số hàng vạn người Việt ở vùng biên giới phía nam này. Một vài lính hồng quân của Mao Trạch Đông cũng thấy xuất hiện trong vùng và có thể dĩ nhiên giúp đỡ ít nhiều cho họ. Còn người Nhật thì không có gì đặc biệt đáng phải bận tâm. Chúng phần lớn tập trung ở các thành phố hoặc trên các phòng tuyến, còn hậu phương của họ thì rất lộn xộn, ở đó các phe nhóm quân phiệt tha hồ tung hoành như không ai trừng phạt.
Mùa xuân qua, mùa hè đã đến, nhưng đồng chí Vương vẫn chưa thấy đâu. Từ cuối năm 1939, ông lúc nào cũng bận rộn lo việc xây dựng cơ sở, thiết lập đường dây liên lạc với tổ chức cách mạng của mình trong các vùng phía nam Trung Quốc, chuẩn bị thời cơ thuận lợi để về nước. Trong thời gian này Võ Nguyên Giáp cũng không cho mình có thời gian rảnh rỗi, ông đọc sách và ghi chép lại các tài liệu. Cuộc sống khi đó lúc nào cũng náo nhiệt. Võ Nguyên Giáp kể lại: “Chúng tôi tự đi chợ và tự chia nhau nấu nướng. Đến lượt tôi do không thạo việc bếp núc, anh em phân công tôi rửa bát. Trong thời gian rảnh rỗi tôi tự đề ra nhiệm vụ học tiếng Hoa. Lúc nào ra khỏi nhà cũng phải cảnh giác vì nơm nớp sợ bọn Trung Hoa Quốc dân Đảng có thể ám sát hoặc trấn lột tống tiền”.
Rồi một hôm vào đầu tháng 6 một người của tổ chức đảng đến tìm Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng và đưa họ đến bờ sông Thúy Hồ. Đồng chí Vương đã ngồi sẵn trong thuyền đợi họ. Võ Nguyên Giáp nhận ra ngay đó là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đồng chí Vương cất tiếng chào và nói: “Chú Đồng không già đi bao nhiêu nhỉ”, còn với Võ Nguyên Giáp, đồng chí Vương cười nói: “Còn như chú Giáp thì trông tươi như con gái”.
Trong những ngày sau đó, ba người thảo luận về các vấn đề hệ trọng, về tương lai của Việt Nam. Đồng chí Vương nói từ nay đồng chí lấy tên mới là Hồ Chí Minh. Võ Nguyên Giáp thấy ở Hồ Chí Minh toát lên một tác phong bình dị, suy luận sáng suốt mà rất hấp dẫn. Ngay từ buổi gặp đầu tiên đó, Võ Nguyên Giáp viết: “Chúng tôi tưởng như đã quen nhau từ lâu”.
Hồ Chí Minh thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với Võ Nguyên Giáp và cũng coi Võ Nguyên Giáp như người em ít tuổi hơn, đồng thời đánh giá cao khả năng của Võ Nguyên Giáp. Đó là một con người có thể làm được những chuyện lớn cho chủ nghĩa cộng sản và cho đất nước. Chắc là không ai có thể biết giữa hai mục tiêu: xây dựng chủ nghĩa cộng sản và giải phóng đất nước, cái nào là ưu tiên hơn đối với Hồ Chí Minh! Rất nhanh ông nói như ra lệnh: “Chú Giáp sẽ đi Diên An học trường đảng. Nhiệm vụ là học cả quân sự”. Đối với Võ Nguyên Giáp, cuộc gặp hôm đó có mục đích giao nhiệm vụ cho ông là phải nhanh chóng học về công tác đảng đồng thời kết hợp với sinh hoạt nội trú để được đào tạo về quân sự.
Sau buổi nói chuyện hôm đó, Hồ Chí Minh rời Côn Minh để đi thăm cộng đồng người Việt ở dọc con đường sắt Việt Nam. Võ Nguyên Giáp thu xếp hành lý và cùng với Phạm Văn Đồng cùng một cán bộ nữa của đảng là Cao Hồng Lĩnh rời Côn Minh đi trọn ba ngày đến Quế Dương. Cả ba người đi trên một chiếc xe tải mang dấu chữ thập đỏ của Trung Hoa Quốc dân Đảng do một đảng viên cộng sản Trung Hoa lái. Cả ba lèn chặt ở phía sau thùng xe trong đống hàng hóa, trên phủ bạt. Thời tiết bên ngoài rất nóng, không khí trong xe ngột ngạt, xe nhảy chồm chồm trên con đường đầy ổ gà và vết bánh xe. Vải bạt phủ hàng ngăn khiến họ không nhìn thấy người lái xe tải trên con đường hẹp, ngoằn nghèo không có cọc chắn bên lề. Hai bên là rặng núi cao chênh vênh ven các vực thẳm. Đó là một chuyến đi không bao giờ phai mờ trong ký ức của Võ Nguyên Giáp.
Người lái xe để người ở Tổng hành dinh của Bát lộ quân – tên gọi của Hồng quân Trung Hoa tham gia chống Nhật bên cạnh lực lượng Quốc dân Đảng. Họ đợi xe đò đi tiếp đến Quế Dương. Võ Nguyên Giáp nhớ lại: “Chúng tôi phải đợi lâu đến hàng tuần, trong lòng nóng như lửa đốt”. Trong những ngày chờ đợi Võ Nguyên Giáp sống cùng với binh sĩ hồng quân trong Bát lộ quân và rất sung sướng thấy rằng tất cả mọi người từ người phụ trách ở bàn giấy đến chiến sĩ nuôi quân dưới bếp ai nấy đều biết rõ đồng chí Hồ Quang (một bí danh khác của Hồ Chí Minh). Lương thực hiếm, tiền đi chợ mua thức ăn không nhiều, Võ Nguyên Giáp học trồng rau cải thiện bữa ăn. Trong lúc chờ đợi, Võ Nguyên Giáp dành thời giờ học tập, thường dùng trụ sở của cơ sở đảng địa phương có tên gọi là Việt Nam Giải phóng quân Đồng minh. Ông say mê sách, làm công tác tuyên truyền và đi thăm nhiều đơn vị vũ trang của hồng quân Trung Hoa. Thời gian chờ đợi dài, ăn uống đạm bạc nhưng nhóm cố gắng thích nghi với ý tưởng sớm trở về Việt Nam để bắt đầu cuộc đấu tranh chống Pháp. Nhiều lần khi gặp nhau họ cất tiếng chào hô lớn: “Thời cơ đã đến”.
Võ Nguyên Giáp chăm chỉ nghiên cứu chiến thuật, chiến lược, các vấn đề trang thiết bị, huấn luyện, tuyển quân. Năm 1941, theo một nguồn tin ông đã có dịp đến thăm Mao Trạch Đông ở Nam Trung Quốc và rất ấn tượng với những gì mắt thấy tai nghe. Võ Nguyên Giáp đã tự đào tạo về chiến lược, chiến thuật qua nghiên cứu một đội quân cũng chỉ được trang bị yếu kém, thiết bị lạc hậu và chỉ huy là những người không tên tuổi: những người chăn ngựa, những người trí thức không qua trường lớp quân sự, nhưng đội quân đó đã đủ sức chống chọi với lực lượng quân đội của những nước lớn, đó chính là đội quân của những người cách mạng Pháp xuất thân từ nông dân nghèo khổ trong những chiến dịch đầu tiên của Napoleon.
Giờ đây Võ Nguyên Giáp lĩnh hội được nhiều điều về Mao Trạch Đông và quân đội cách mạng. Ông như bị thôi miên về các trước tác quân sự của Mao Trạch Đông như cuốn Các vấn đề chiến lược của chiến tranh chống Nhật viết năm 1938. Ông thấy những vấn đề mà Mao Trạch Đông nêu ra và giải quyết cũng là những vấn đề của người Việt Nam. Võ Nguyên Giáp cũng đọc Cuộc đấu tranh ở Tỉnh Cương Sơn xuất bản năm 1928 trong đó vấn đề xây dựng lực lượng du kích đã được giải quyết như thế nào ở Trung Quốc. Võ Nguyên Giáp còn đọc Chiến tranh du kích do Mao Trạch Đông viết năm 1937. Những kinh nghiệm trước đây của Mao Trạch Đông đã ảnh hưởng không nhỏ đến Võ Nguyên Giáp. Dĩ nhiên là cần phải học hỏi từ cuộc cách mạng vô sản ở Trung Quốc để áp dụng những bài học đó trong hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam.
Qua nguồn thông tin đó, Võ Nguyên Giáp đã thấy được hai quan điểm về chiến tranh nhân dân mà ông sẽ phải bổ sung bằng những quan sát và cảm nhận của riêng mình. Rút cục, ông đã sáng tạo ra một hình thức mới của chiến tranh du kích nông dân. Cuộc chiến tranh này tất yếu sẽ dần dần lan rộng khắp vùng nông thôn Việt Nam, đồng thời tiến hành những cải cách cần thiết mà không làm chậm thắng lợi cuối cùng. Ông cho rằng những quan điểm của mình không phải lặp lại nguyên xi những lý thuyết của Mao Trạch Đông dứt khoát cho rằng không thể phát động một cuộc khởi nghĩa ở các vùng đô thị bị địch chiếm đóng. Trái lại, ông.cho rằng: “Tại các vùng đô thị, đấu tranh chính trị chiếm ưu thế còn ở vùng nông thôn thì đấu tranh vũ trang phải là chủ đạo… Chúng ta đã kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao”. Ông đã lấy nghệ thuật tiến công kiểu Napoleon làm của mình, tức là biết tiến công địch trên nhiều mặt trận, quan tâm đến việc chia cắt lực lượng địch rồi lần lượt đánh bại từng bộ phận lực lượng đối phương bằng những cuộc tiến công chớp nhoáng. Ông tập trung người và phương tiện chiến đấu đánh vào trung tâm của địch. Và ông đã chiến thắng!
Khi thế lực của người Nhật ngày càng gia tăng ở Đông Dương, thì trong con mắt những người theo xu hướng quốc gia và những người cộng sản, nước Pháp chỉ còn duy trì ở Việt Nam quyền lực trên danh nghĩa. Võ Nguyên Giáp tin rằng kẻ thù chính không phải là quân đội chiếm đóng của Nhật Bản. Ông tin rằng cuối cùng lực lượng Đồng minh sẽ đè bẹp lực lượng phe Trục (Đức, Ý, Nhật) và người Pháp sẽ trở lại tái chiếm Đông Dương, đặt lại nền thống trị của họ. “Không ai thấy sói bỏ đàn cừu chừng nào chúng chưa no nê hoặc chừng nào người ta không lấy súng đánh đuổi chúng”. Đó là câu tục ngữ luôn luôn trở lại trong trí nhớ Võ Nguyên Giáp trong những ngày gian khổ sống lưu vong ở Trung Quốc và tiến hành công việc chuẩn bị đón thời cơ cách mạng.
Hồ Chí Minh ý thức được rằng thất bại của quân đội Pháp ở Pháp và Đông Dương tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc giải phóng khỏi ách thực dân. Vì vậy, đến tháng 10/1940, tiếp sau cuộc tiến công của quân Nhật ở Lạng Sơn và Đồng Đăng ở Bắc Kỳ, ông cho Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng biết ông muốn gặp lại họ lần này ở Quế Lâm để nối lại các cuộc trò chuyện và hoạch định tương lai. Khi ba người gặp lại nhau, họ có những biện pháp cơ bản đề phòng bọn gián điệp. Cải trang thành những người đi dạo trong những lúc rảnh rỗi tại các vùng ngoại ô Quế Lâm hoặc ngồi trên vệ cỏ dưới bóng cây, họ bàn với nhau về công việc sắp tới. Sau này Võ Nguyên Giáp viết: “Bác ngồi nghe chúng tôi báo cáo và cho ý kiến, gợi ý chúng tôi suy nghĩ về công việc sắp tới”.
Trong một cuộc gặp gỡ, Hồ Chí Minh nói: “Trước tình hình mới, thống nhất dân tộc trở thành điều quan trọng bậc nhất. Chúng ta phải nghĩ đến tổ chức một mặt trận dân tộc thống nhất với hình thức tổ chức và cái tên thích hợp… có thể gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh hội. Nhưng như thế thì dài quá, chúng ta gọi tắt là Việt Minh. Mọi người sẽ dễ nhớ”.
Hồ Chí Minh nói tiếp về nhiều công việc khác cho nhiệm vụ sắp tới. Ông đã nghĩ đến việc Võ Nguyên Giáp sẽ lo về quân sự vì ông biết người thầy giáo dạy sử này có những kiến thức vững vàng về mặt lý thuyết nhưng phải có công tác thực tế trong nghệ thuật chiến tranh. Lúc này có một nhóm thanh niên Cao Bằng chạy thoát khỏi các cuộc vây ráp của địch vừa mới tới Trung Quốc. Hai sĩ quan người Việt phục vụ trong quân đội Quốc dân Đảng là Trương Bội Công và Hồ Ngọc Lãm đang tìm cách tổ chức họ thành một lực lượng nhỏ có thể hành động chống Nhật. Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp đi gặp gỡ số thanh niên này, tổ chức cho họ một lớp huấn luyện quân sự. Khi quay lại Cao Bằng, họ sẽ trở thành lực lượng củng cố, phát triển phong trào, tổ chức hậu cần và đường dây liên lạc.
Hồ Chí Minh quyết định Cao Bằng sẽ trở thành căn cứ cho cách mạng Việt Minh chống Pháp. Có lẽ không phải là tình cờ khi truyền thống cách mạng của Cao Bằng từ trước đến thời kỳ này và Cao Bằng vẫn là trung tâm của phong trào. Ở gần biên giới, Cao Bằng vừa là nơi ẩn nấp vừa là đầu cầu cho các lực lượng vũ trang cách mạng được huấn luyện và sửa soạn ở Trung Quốc tiến về nội địa.
Võ Nguyên Giáp nhận lệnh và lên đường đi Tĩnh Tây. Tại đây ông bắt liên lạc với những người Việt Nam và nói cho họ thời cơ đấu tranh giải phóng đất nước đã tới, thuyết phục được gần bốn chục người bỏ hàng ngũ Quốc dân Đảng Trung Hoa về với mình, thành lập đội vũ trang đầu tiên. Võ Nguyên Giáp chọn làng nhỏ Ca Ma làm căn cứ, nơi này gần biên giới ở phía bắc thị xã Cao Bằng.
Dường như Võ Nguyên Giáp không bao giờ cho rằng có phương pháp nào khác có thể làm suy yếu sự thống trị của Pháp - Nhật ở Việt Nam. Ngay từ đầu ông đã đề ra nội dung và phương pháp luyện tập đánh du kích theo từng đơn vị nhỏ. Trong khi Võ Nguyên Giáp ra sức huấn luyện số thanh nhiên đó thành một đơn vị vũ trang thì Hồ Chí Minh cử thêm một người khác là Vũ Anh về Bắc Kỳ để xây dựng căn cứ địa sâu trong nội địa gần Cao Bằng. Vũ Anh tìm thấy một cái hang thuận tiện nằm ở sườn núi trong vùng Pắc Bó cách thị xã Cao Bằng 30 km về phía đông bắc và cách Ca Ma khoảng 15 km. Hồ Chí Minh theo dõi chặt chẽ chương trình đào tạo huấn luyện của Võ Nguyên Giáp. Sau này, Võ Nguyên Giáp kể lại: “Người chú ý rất nhiều đến nội dung chính trị cũng như yêu cầu bài giảng phải cô đọng, sáng sủa, rõ ràng và dễ hiểu. Lần đầu tiên làm việc với Người, tôi có ấn tượng sâu sắc về phương pháp. Người đề ra: cụ thể, thận trọng đến cùng. Tác phong làm việc của Người trong lớp huấn luyện đã có ảnh hưởng lớn và hướng dẫn tôi trong công tác quân sự sau này…” Lớp học kết thúc, tất cả học viên đều được lệnh trở về Cao Bằng để gánh vác nhiệm vụ vẻ vang của họ là chống Pháp.
Trong những ngày cuối năm 1940, Võ Nguyên Giáp đi đi về về nhiều lần giữa Trung Quốc và Việt Nam để hoàn thành công việc được Hồ Chí Minh giao phó. Ông tự đặt cho mình một bí danh mới: Văn. Và các đồng chí của ông thì gọi một cách thân mật là Anh Văn. Một trong những nhiệm vụ ông được giao phó là quyết định xem những người cách mạng có thể tin tưởng vào sự ủng hộ của đồng bào các dân tộc miền núi phía bắc Bắc Kỳ hay không. Có thể nhờ kiến thức quân sự ngày càng phong phú, có thể còn theo bản năng, Võ Nguyên Giáp hiểu rằng ít có khả năng phát động khởi nghĩa ở vùng nông thôn đồng bằng. Do đó phải xây dựng khối đại đoàn kết giữa các dân tộc ở miền núi: Nùng, Thổ, Mán…
Họ có cuộc sống tự cấp tự túc về mặt kinh tế, có nhiều nét khác biệt về văn hóa, xã hội và tổ chức hành chính so với cư dân vùng đồng bằng. Dân số khoảng một triệu và theo lời kể của Võ Nguyên Giáp, “họ hầu như chưa bao giờ biết đến cách mạng. Họ luôn sống trong sự cai trị của thực dân.” Họ có tiếng nói riêng, đôi khi mỗi nhóm lại có thổ ngữ riêng, mặc dù cùng một dân tộc. Đa số phụ nữ không nói tiếng phổ thông và Võ Nguyên Giáp bắt buộc phải học tiếng địa phương, sử dụng hình vẽ để nói chuyện với họ. Dần dần Võ Nguyên Giáp học nói tiếng Tày, tiếng Dao, Hmông, Thổ, Dao trắng và Dao tiền để nói chuyện với những đội viên mới được kết nạp vào các đội tự vệ. Nhờ đó, ông thâm nhập dễ dàng hơn vào cuộc sống của họ, thực hiện chỉ thị của Hồ Chí Minh là cùng ăn, cùng ở, cùng làm với họ để làm công tác tuyên truyền, nâng cao trình độ giác ngộ để họ dần dần đi theo cách mạng.
Một tác giả khác đã để lại một báo cáo về công việc của Võ Nguyên Giáp trong thời kỳ này: “Giữa hàng trăm thung lũng ngăn cách nhau, Văn đã mở ra con đường (cách mạng) về phía nam, tự mình hoạt động theo phương pháp ông thường áp dụng: ông đến từng bản làng, đóng vai một nhà nông nghèo tha phương cầu thực, đi xin việc trong những gia đình thiếu người làm mùa vụ để kiếm ăn qua ngày. Ngày ngày qua đi, lúc đầu người ta cũng làm ngơ, không nghi ngờ hay trình báo gì với chức dịch trong bản. Sau một thời gian ông vào làm thì mọi người đã nghe theo ông, thế là ông có chỗ dựa vững chắc. Từ lúc này ông chiếm được cảm tình của dân làng. Họ cung cấp những tin tức cần thiết và lương thực cho đội công tác và ông còn học được tiếng địa phương.”
Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp dịch các tài liệu tuyên truyền của Việt Minh sang tiếng Pháp, tiếng Dao và tiếng Hmông. Võ Nguyên Giáp rất phấn khởi về công việc này, đã soạn một bài văn vần bằng thổ ngữ trong đó nội dung cốt yếu là tuyên truyền Việt Minh viết dưới dạng dễ hiểu để nhớ. Đó là bài Việt Minh ngũ tự kinh, gồm những câu thơ năm chữ xếp thành vần, thành điệu là một công cụ tuyên truyền đắc lực, đặc biệt thích hợp với đồng bào vùng núi không biết đọc biết viết. Trong bút ký của ông, Võ Nguyên Giáp viết rằng khi đi qua các vùng núi phía bắc đôi khi có thể nghe thấy các bà các chị hát bài ca Việt Minh mà nội dung rút ra từ các câu thơ năm chữ của ông. Điều đó khiến ông rất cảm động. Trong một lần đến khai hội ở một xóm mới tổ chức được cơ sở Việt Minh, ông đã thấy phụ nữ đọc thuộc lòng những câu thơ năm chữ trong lúc giã gạo hay kéo sợi.
Tháng 12 năm 1940 Võ Nguyên Giáp đi gặp một người thuộc dân tộc Nùng. Đó là Chu Văn Tấn, sinh năm 1909 ở Thái Nguyên trong một gia đình nông dân nghèo đông con. Chu Văn Tấn trở thành một thanh niên giác ngộ cách mạng và được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1934 sau khi được gia nhập Việt Minh ở chính làng ông. Võ Nguyên Giáp và Chu Văn Tấn coi nhau như “những cốt cán”, có cảm tình với nhau và làm việc với nhau rất ăn ý. Chẳng bao lâu Chu Văn Tấn trở thành một người chỉ huy đội vũ trang cứu quốc quân. Năm 1944, Cứu quốc quân thống nhất với lực lượng quân sự mới của Võ Nguyên Giáp. Chu Văn Tấn từng giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên của Việt Minh sau ngày Tuyên bố độc lập 2/9/1945, và sau này được phong quân hàm thượng tướng. Võ Nguyên Giáp trở thành nhà chiến lược, còn Chu Văn Tấn trở thành một trong những chỉ huy chiến dịch tốt nhất.
Họ dạy cho nông dân miền núi biết kết hợp hoạt động quân sự với hoạt động chính trị – một nguyên tắc vẫn thường xuyên được áp dụng trong lịch sử Việt Nam – là một bước cần thiết để tạo ra quân đội vững chắc. Võ Nguyên Giáp quyết định chọn khoảng 40 thanh niên chưa đến 30 tuổi là người dân tộc Nùng(1) để huấn luyện thành nhóm cán bộ Việt Minh đầu tiên.
Nhóm thanh niên đó theo học một lớp đào tạo cấp tốc trong 10 ngày giữa một thung lũng yên tĩnh, trong một làng của người Nùng gần biên giới Trung Quốc. Thức ăn chủ yếu là ngô, đêm ngủ ngoài trời. Một ngày bắt đầu bằng việc kiếm củi cho dân bản. Sự giúp đỡ nhân dân ở địa phương chính là cơ sở đào tạo về chính trị và cũng là cách để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân.
Những thanh niên đó hiểu rằng muốn duy trì hoạt động lâu dài phải triệt để giữ bí mật mọi hoạt động của mình. Do đó, ở những nơi đông người và trong mọi tình huống, họ phải tuân theo 4 quy định: 1/ Ban ngày tuyệt đối không đi lại. 2/ Đi chân đất để không để lại dấu vết. 3/ Leo núi không dùng gậy chống để không để lại dấu chân và đầu gậy trên đá hay rêu. 4/ Đêm đến không được vào ngủ trong làng sẽ dễ bị phục kích hoặc gây nguy hiểm cho dân làng. Kết thúc khóa học bao giờ cũng có tổ chức lễ tuyên thệ dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh. Sau đó nhiều thanh niên trở về làng cũ để giác ngộ người thân trong gia đình, bạn bè, hàng xóm đi theo con đường cách mạng.
Võ Nguyên Giáp khá hài lòng về kết quả công tác của nhóm mình. Tuy số lượng không đông, chỉ khoảng mười người, nhưng họ đã được đào tạo, có lập trường và thái độ kiên định. Từ đó những cơ sở bí mật được nhen nhóm và ngày càng được mở rộng ở vùng núi phía bắc, tổ chức dọc biên giới những làng “hoàn toàn”, nói cách khác là toàn bộ dân làng đi theo Việt Minh. Phong trào mở rộng từ những làng “hoàn toàn” tiến tới những tổng hoàn toàn, huyện hoàn toàn… Vài tháng sau Võ Nguyên Giáp đã có thể báo cáo phong trào Việt Minh đã lan rộng ra ba huyện trong tổng số chín huyện thuộc tỉnh Cao Bằng. Cuối năm 1944, Võ Nguyên Giáp khẳng định với Hồ Chí Minh: Trong tỉnh Cao Bằng đã xây dựng được nhiều căn cứ cho các đội tự vệ vũ trang.
Cùng với việc phát triển ảnh hưởng của cách mạng, các hình thức chính quyền của nhân dân được hình thành ở nhiều nơi. Các cán bộ Việt Minh thực hiện quyền tự trị về hành chính ở nhiều làng, rồi nhiều huyện. Chính quyền thuộc địa Pháp không làm gì được, chỉ còn biết lo ngại nhìn bộ máy chính quyền suy sụp ở vùng biên giới.
Võ Nguyên Giáp cho rằng một trong những nhân tố quan trọng để phát triển phong trào là báo chí, được dùng để công khai sự nghiệp của Việt Minh. Theo lệnh của Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp ra sức mở rộng ảnh hưởng của Việt Lập (viết tắt của Việt Nam độc lập). Theo ông kể lại, các bài báo không được quá dài dung lượng khoảng từ 50 đến 100 từ, để người đọc là nông dân ít chữ dễ đọc, dễ nhớ. Ông thừa nhận: “Nhiệm vụ không dễ dàng chút nào, nhiều khi rất lúng túng”. Dù số lượng báo phát hành hạn chế, nhưng “nhờ cách viết sáng sủa rõ ràng và cô đọng, tờ báo đã chuyển tải tư tưởng chính sách của cách mạng đến với mọi tầng lớp nhân dân.”
Tờ báo sớm phát huy tác dụng, được đưa đến từng làng có phong trào, đến từng tổ cứu quốc. Báo được phổ cập rộng rãi “nhờ cách viết giản dị, ngắn, nội dung chính trị phù hợp với trình độ của quần chúng […] góp phần làm quần chúng nâng cao trình độ giác ngộ và giúp họ tiến bộ.” Trong mấy số đầu, mỗi kỳ báo Việt Lập chỉ ra có hai trang, nhưng sau đó Võ Nguyên Giáp đã nhanh chóng tăng lên bốn trang và ra đều hai kỳ mỗi tuần. Các bài báo của Võ Nguyên Giáp đều nhấn mạnh đến công tác tự vệ, vận động phụ nữ và tố cáo tội ác của Pháp, Nhật đối với nhân dân Việt Nam.
Dù Võ Nguyên Giáp cho rằng khả năng làm báo của mình không đến nỗi tồi nhưng Hồ Chí Minh lại không đồng ý với ông. Khi còn ở Trung Quốc, Hồ Chí Minh thường nhận được những số báo có bài của Võ Nguyên Giáp từ trong nước gửi ra. Sau này Bác phê bình văn xuôi của Võ Nguyên Giáp khó hiểu. Bác vừa cười vừa nói với Võ Nguyên Giáp: “Báo của chú gửi ra Bác không đọc, các đồng chí khác cũng vậy. Nói chung các bài viết dài và khó hiểu”. Một lần khác, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp cả hai đều đã viết báo từ những năm 1930, cho Bác Hồ xem những mẩu tin cắt từ báo ra. Bác Hồ bình luận rằng những bài họ viết chỉ những đảng viên trong đảng mới hiểu được, còn quần chúng bình thường sẽ không thể hiểu. Võ Nguyên Giáp đã cố gắng rất nhiều để những bài báo của mình có thể đến với mọi tầng lớp nhân dân.
Ngày 8/2/1941, Hồ Chí Minh nhận định thời cơ đã chín muồi, ông tìm cách về nước, ở trong hang Pắc Bó. Hang nằm ở vị trí rất phù hợp cho một đại bản doanh bí mật. Thuộc địa phận huyện Hà Quảng tỉnh Cao Bằng, hang Pắc Bó nằm trên một vùng cao rộng 3 km, dài 6 km, rất gần biên giới Trung Quốc. Lối vào hang được hoàn toàn che giấu bằng một lùm cây săng và cỏ dại ở ngoài rất khó phát hiện dù đứng gần. Dưới chân núi đá dốc đứng có nhiều động nhỏ, một con suối nhỏ chạy ngoằn ngoèo, có những chỗ lại nở rộng gần như một cái hồ. Võ Nguyên Giáp viết: “Bác Hồ đặt tên con suối đó là suối Lênin”. Núi cao, tiết trời lạnh và thiếu không khí khiến cuộc sống ở Pắc Bó khá gian khổ, cuộc sống chỉ được duy trì ở mức tối thiểu. Sáng dậy sớm, tập thể dục, tắm suối Lênin rồi trở vào hang bắt đầu làm việc theo một chương trình dày đặc: tiếp cán bộ cơ sở, đại biểu các nơi đến báo cáo xin chỉ thị, họp bàn công việc sắp tới, tổ chức các lớp huấn luyện chính trị, dạy chữ cho trẻ em địa phương…
Võ Nguyên Giáp và các cán bộ thường kết thúc một ngày làm việc bằng bữa cơm tối thịnh soạn hơn một chút với một vài lát thịt muối hoặc cá câu được dưới suối. Ban đêm họ ngủ trên giường làm bằng thân cây ghép lại, lấy lá rừng làm đệm chống khí lạnh trong hang đá, đầu gối lên những khúc gỗ. Những loại giường như thế Võ Nguyên Giáp miêu tả: “Không mềm, không ấm.” Đôi khi có những đêm quá lạnh khiến họ không sao ngủ được. Lúc đó họ phải ngồi dậy đốt lửa sưởi, ngồi nép vào nhau cho ấm, đợi trời sáng.
Theo lời kể của Võ Nguyên Giáp, đồng bào Nùng ở địa phương rất có thiện cảm, tính tình chất phác. Họ sống rải rác trong thung lũng hay bên sườn núi cheo leo, mỗi xóm chỉ có hai ba gia đình. Xóm to nhất cũng chỉ có mươi nóc nhà. Hồ Chí Minh biết đa số người dân sống trong thung lũng Pắc Pó đều mù chữ, vì vậy Người ra lệnh cho các cán bộ phải đọc và viết tiếng Kinh. Trong các buổi họp với cán bộ cấp dưới, Người yêu cầu họ phải dạy cho dân biết đọc, biết viết. Người chăm chú lắng nghe ý kiến của mọi người trong khi bàn luận công việc, sẵn sàng tiếp thu những nhận xét, phê bình kể cả những ý kiến khác với mình. Võ Nguyên Giáp nhớ lại Bác Hồ không bao giờ cao giọng tranh cãi hoặc phàn nàn khi người khác nói trái ý mình. Nếu đa số quyết định một chủ trương mà Bác cho là không phải thì Bác sẵn sàng làm thử rút kinh nghiệm để lấy kết quả thực tế chứng minh ý kiến của mình là đúng hoặc cần phải điều chỉnh cho hoàn hảo hơn. Đó là cách Người thường phân tích và tổng hợp những ý kiến, mong muốn, hy vọng của người khác để đưa vào nội dung phát biểu của mình. Chính vì vậy, ý kiến của Bác Hồ dễ được mọi người nhất trí và đánh giá cao. Tuy ở cách xa đồn bốt địch nhưng từ Sóc Giang địch vẫn có thể phái các đội tuần tra sục sạo đi sâu vào vùng căn cứ mỗi khi phải truy bắt một tên buôn lậu nguy hiểm, hoặc thường xuyên lùng sục các làng tình nghi để truy tìm Việt Minh. Dù phong trào cách mạng đã phát triển sâu rộng, có những bước tiến vững chắc nhưng cả Pháp và Nhật vẫn chỉ coi Việt Minh như là giặc cỏ và bọn khủng bố hơn là mối nguy hiểm đe dọa nghiêm trọng quyền lợi của chúng. Song ở thời điểm này, lực lượng của Việt Minh vẫn chưa đủ sức đề kháng nếu bọn Nhật và Pháp quyết tâm tiến hành một cuộc vây quét thật sự.
Những người hoạt động cách mạng được an toàn trước hết là do thái độ thờ ơ của nhà cầm quyền đã tạo điều kiện cho cán bộ Việt Minh đi lại dễ dàng, tự do tuyên truyền đường lối, chương trình và chính sách của cách mạng mà không hề bị ngăn trở. Không một lực lượng vũ trang nào của Pháp quan tâm đến tổ chức mới hình thành cho nên cuộc đụng độ chỉ diễn ra lẻ tẻ khiến hai bên đều bất ngờ. Điều đó có thể xảy ra khi một đội tuần tra của Pháp về các làng lùng sục để truy đuổi hay tiêu diệt giặc cướp. Chúng chặn bắt bất cứ ai tình nghi là cộng sản hay có cảm tình với cộng sản. Bọn Pháp có thể bất ngờ bị chống trả, một hay hai tên trong đội tuần tra có thể bị thiệt mạng. Thế là chúng lùng sục vào các làng, đốt phá nhà cửa, bắn giết dân làng để trả thù. Khi đó Võ Nguyên Giáp và các đồng chí của ông phải rút sâu vào căn cứ, phân tán lực lượng trong các cánh rừng rậm rạp hoặc trên sườn núi cao để ẩn nấp.
Võ Nguyên Giáp nhớ lại: “Mỗi khi cảm thấy không an toàn, chúng tôi di chuyển cơ quan, phân tán ngay kho tàng lương thực, vũ khí, đôi khi tìm địa điểm mới ở ngay giữa rừng có nhiều thác nước, có lối vào rất khó và kín đáo ít ai có thể ngờ được, muốn tới đó phải lội qua con suối Lênin, vượt qua những tảng đá lớm chởm hình tai mèo rồi lại leo tiếp lên đỉnh các triền núi cao dốc đứng”.
Giữa các khe núi, trong các hang động tối tăm, ẩm thấp sâu trong rừng cây rậm rạp, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và các cán bộ của Việt Minh bố trí nơi làm việc, cất giấu tài liệu, vũ khí. Võ Nguyên Giáp kể lại những nơi thoát hiểm đó như sau: “Khi cảm thấy địch đang đi lùng, chúng tôi phải phân tán ra ở nhiều hang khác nhau. Có một hôm đi công tác ở cơ sở về trời vừa mưa xong nhìn vào hang thấy đầy côn trùng, rắn rết…”. Trong những điều kiện như thế, mỗi khi chạy giặc đi càn, cuộc sống thật đáng sợ. Chúng ta hãy nghe ông kể tiếp: “Chúng tôi phải uống nước từ trên thác đổ xuống. Tìm được cái ăn là một chiến công. Chúng tôi chia nhau từng củ sắn, bắp ngô […]. Đôi khi cả tháng chỉ ăn ngô và thân cây chuối rừng”.
Ẩn nấp trong hang sâu, họ bỏ hàng giờ để bàn về tương lai đất nước. Võ Nguyên Giáp không quên niềm tin sắt đá của Hồ Chí Minh: “Trong khoảng 5 năm nữa cuộc cách mạng sẽ thắng lợi và điều mong đợi sẽ tỏa sáng. Mình chỉ ước nguyện có một điều: đất nước thoát khỏi ách nô lệ, dân ta có đủ cơm ăn”. Tất cả họ đều biết rằng tương lai của cách mạng thật khó khăn, phức tạp, khiến Võ Nguyên Giáp và các đồng chí của ông đã có lúc cảm thấy bối rối không biết đối phó như thế nào trước những khó khăn gặp phải. Khi đó Hồ Chí Minh đã bình tĩnh giải thích những triển vọng của cách mạng bằng những lời lẽ hết sức bình dị, dễ hiểu.
Một hôm có cán bộ thắc mắc hỏi Hồ Chí Minh: “Làm thế nào thực hiện được cuộc cách mạng nếu không có súng và lấy đâu ra súng?” Người bình thản trả lời: “Chúng ta phải dựa vào sức mình là chính rồi có thêm một ít viện trợ từ bên ngoài. Một khi nhân dân hiểu được ý tưởng tốt đẹp của cách mạng thì họ sẽ tạo ra sức mạnh không thể nào cưỡng lại được. Mọi việc đều do nhân dân làm nên. Tất cả vì nhân dân. Người trước, súng sau. Có nhân dân là có tất cả”. Đó là một bài học mà Võ Nguyên Giáp không bao giờ quên.
Năm 1941, ngoài việc chuẩn bị vũ trang, Võ Nguyên Giáp mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực khác. Tháng 5 ở Pắc Bó, Võ Nguyên Giáp tham gia Hội nghị lần thứ 8 mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Chính qua hội nghị này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh quan điểm của Lênin về cách mạng chỉ hướng tới công nhân cần được thay đổi ở Việt Nam. Người cho rằng sự thay đổi của Việt Nam, thành công của cách mạng Việt Nam chỉ có thể xảy ra khi lấy cách mạng của giai cấp nông dân làm nền tảng. Tư tưởng chủ đạo trong chính sách của Đảng là cách mạng giải phóng dân tộc, vậy lực lượng trụ cột để đưa cách mạng đến thành công là nằm trong khối giai cấp nông dân ở nông thôn. Hồ Chí Minh chỉ đạo phương hướng - nghị quyết của hội nghị là: “Lúc này giải phóng dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm, là trên hết […]. Mọi sự sửa soạn phải hướng về khởi nghĩa vũ trang”.
Theo gợi ý của Hồ Chí Minh, Hội nghị còn thông qua việc thành lập mặt trận dân tộc thống nhất, lấy tên là Việt Nam Độc lập Đồng minh hội gọi tắt là Việt Minh – đúng như đã thảo luận với Võ Nguyên Giáp trước đây. Việt Minh sẽ kêu gọi mọi người yêu nước gia nhập không phân biệt giàu nghèo, tuổi tác, nam hay nữ, tôn giáo và xu hướng chính trị. Điều này sẽ giúp tập hợp được nhiều đảng phái khác nhau dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh.
Một trong các nhóm hưởng ứng lời kêu gọi đó là đảng Đại Việt, thường được gọi tắt là Đại Việt, một chính đảng theo xu hướng quốc gia thành lập ít lâu trước Chiến tranh thế giới thứ hai tập hợp những phần tử yêu nước xuất thân từ giai cấp trung lưu sống tại các thành phố ở Bắc Kỳ. Một trong những mục tiêu của họ là dựa vào lực lượng Nhật Bản đang chiếm đóng Việt Nam để giành độc lập từ tay Pháp. Những tàn dư của Việt Nam Quốc dân Đảng, một đảng quốc gia chủ nghĩa của Việt Nam bị tổn thất nặng sau vụ bạo động Yên Bái thất bại năm 1930, cũng tỏ ra nhạy cảm với lời kêu gọi của Hồ Chí Minh.
Nhưng có một tổ chức cách mạng bác bỏ mặt trận thống nhất của Việt Minh, đó là Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, người ta quen gọi là Đồng minh hội có xu hướng quốc gia, được Trung Quốc bảo trợ, thành lập cuối năm 1942 ở Liễu Châu, Trung Quốc. Đồng minh hội còn bao gồm cả Việt Nam phục quốc đồng minh hội do Cường Để sáng lập đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, thường được gọi tắt là Phục quốc. Đó là một đảng chính trị thân Nhật bao gồm những phần tử theo xu hướng quốc gia chống Pháp và có thể gợi đến một sự phục hồi của tổ chức Việt Nam Quang phục hội của Phan Bội Châu năm 1912.
Tham gia Đồng minh hội còn có thành viên của một tổ chức đó là Việt Nam Giải phóng Đồng minh hội do Nguyễn Hải Thần, một người theo xu hướng quốc gia lãnh đạo. Nguyễn Hải Thần sống lâu năm ở Trung Quốc, được Quốc dân đảng Trung Hoa ủng hộ, đã giữ chân lãnh đạo trong Đồng minh hội.
Đồng minh hội từ chối hợp tác với Đảng Cộng sản, với Việt Minh và kình địch với Việt Minh trong cuộc chiến giành quyền lực. Còn nhiều phe phái và đảng chính trị khác tồn tại ở Việt Nam trong thời kỳ này. Điều đó nói lên tính phức tạp của nhiệm vụ mà Hồ Chí Minh và Việt Minh phải đương đầu vào tháng 5/1941 để thành lập một mặt trận thống nhất.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 ở Pắc Bó thảo luận về vấn đề vũ trang khởi nghĩa và chọn Phùng Chí Kiên đứng đầu đội quân cứu quốc mới. Phùng Chí Kiên đã được đào tạo cơ bản về quân sự ở trường Hoàng Phố, được phong cấp thiếu tá trong một đơn vị của Mao Trạch Đông từ năm 1927 đến 1934. Nhìn bề ngoài, đó là con người đúng với nhiệm vụ. Không chờ đợi, Phùng Chí Kiên tổ chức các đội vũ trang ở phía bắc Việt Nam và mở các cuộc tiến công vào quân Pháp.
Hội nghị ở Pắc Bó cũng bầu Trường Chinh làm Tổng bí thư mới thay Nguyễn Văn Cừ bị Pháp bắt tháng 6/1940 và xử bắn ở Sài Gòn tháng 5/1941. Hội nghị cũng quyết định xây dựng cơ sở du kích từ Pắc Bó trở xuống phía nam, bởi lẽ hình như khó mà coi địa điểm Pác Bó đó là đại bản doanh của phong trào cách mạng đang lan rộng ra cả nước. Vài tháng sau, tổng hành dinh chuyển về dãy Lam Sơn cách trung tâm Cao Bằng khoảng năm mươi cây số. Hội nghị cũng nêu vấn đề bảo đảm an toàn bí mật vì Pháp tuần tiễu vùng này rất thường xuyên.
Các căn cứ địa được thành lập thêm sẽ thúc đẩy sự phát triển tinh thần cách mạng trong ba tỉnh chủ chốt là Cao Bằng, Bắc Cạn và Lạng Sơn được xem như các trung tâm sửa soạn khởi nghĩa vũ trang ở Việt Bắc. Trong thời kỳ đó, Võ Nguyên Giáp và các cán bộ khác chọn các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn, Hà Giang, Lạng Sơn và Tuyên Quang để hoạt động và gây dựng phong trào.
Hang Pắc Bó và tỉnh Cao Bằng là điểm xuất phát tốt nhưng nay đã đến lúc cần phát triển phong trào. Theo đúng truyền thống Lenin-nít bằng cách sử dụng nòng cốt hiện có, duy trì liên lạc chặt chẽ với các trung tâm khác, Việt Minh đã phát triển phong trào xuống phía nam. Đó là một thời điểm lịch sử của cuộc Nam tiến, một phần của văn hóa Việt Nam từ khi khôi phục độc lập thế kỷ X và kéo theo các cuộc xung đột với Champa cũng như với Campuchia. Một lần nữa lại có các cuộc Nam tiến mới, lần này là chống thực dân Pháp.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 vừa kết thúc, cũng là lúc Hitler xóa bỏ hiệp ước trung lập không xâm phạm lẫn nhau ký hai năm trước với Liên Xô và mở cuộc tiến công chớp nhoáng vào lãnh thổ nước này. Một nghịch lý là việc phát xít Đức tiến công Liên Xô đã đánh dấu một bước ngoặt: Những người cộng sản Việt Nam cũng như nước Nga Xô Viết bỗng chốc trở thành đồng minh của các cường quốc phương Tây trong cuộc chiến đấu chống các nước phe Trục: Đức - Ý - Nhật. Cuối năm 1941, Nhật Bản sử dụng Đông Dương ngày càng nhiều làm bàn đạp chuẩn bị cho các cuộc tiến công ồ ạt trên không và trên bộ bắt đầu từ tháng 12/1941 chống Malaysia và Singapore, Hồng Kông và vùng Đông Ấn thuộc Hà Lan, Guam, Philippines, v.v… Trong lúc các máy bay Nhật cất cánh hướng về Hawaii trong đêm 6/12 thì các đơn vị quân đội Nhật Bản đã bao vây các trại quân Pháp ở Việt Nam để bóp chết từ trong trứng mọi mưu toan chống lại Nhật. Lính Pháp hoàn toàn không chống cự lại.
Chỉ ít phút sau buổi trưa ngày 8/12/1941, Tổng thống Franklin D. Roosevelt triệu tập Quốc hội Hoa Kì trong một phiên họp toàn thể, ông thông báo trên diễn đàn: Người Nhật đã oanh tạc Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) và các công trình quân sự khác của Mỹ trên đảo Hawaii. Tổng thống yêu cầu Quốc hội cho phép tuyên bố chiến tranh. Rất nhanh chóng Mĩ đã đi về phe Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và Việt Minh.
1. Trên thực tế, các thanh niên được lựa chọn thuộc nhiều dân tộc khác nhau (BT).
Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt
- Tác giả : Ngô Văn Phú
- Danh mục : Lịch sử