Chiến thắng bằng mọi giá
Chương 17 “Tuyệt đối bí mật và an toàn là khẩu hiệu của chúng tôi”
Chương 17 “Tuyệt đối bí mật và an toàn là khẩu hiệu của chúng tôi”
Các nhà lãnh đạo trong Bộ Chính trị Bắc Việt Nam thường thảo luận và đôi khi rất kịch liệt về những việc họ phải làm. Họ nên gần gũi với Trung Quốc hay Liên Xô? Có thể sẽ sai lầm khi nói rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc chỉ chia rẽ về vấn đề phương hướng chính trị thân Trung Quốc hay thân Liên Xô. Các cuộc tranh cãi ở Hà Nội còn lắm khi nổ ra về các ưu tiên cần lựa chọn: sản xuất, phát triển công nghiệp, củng cố miền Bắc và luôn sôi nổi nhất là về tiến lên của cách mạng ở miền Nam.
Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo có những quan điểm cá nhân về hai đồng minh lớn và điều này cũng có vai trò lớn trong việc ra quyết định. Liên Xô khuyên các đồng minh chấp nhận nguyên tắc chung sống hòa bình trong chính sách đối ngoại, điều này khá hấp dẫn đối với ai trong Chính phủ Hồ Chí Minh cho rằng nghĩa vụ hàng đầu là củng cố ảnh hưởng của họ ở miền Bắc và xây dựng lại đất nước bị chiến tranh tàn phá. Còn người Trung Quốc có tính chiến đấu hơn, họ có thái độ kiên quyết hơn chống lại Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam. Những mối nguy hiểm của sự liên kết chặt chẽ trên phương diện chính trị cũng như địalý với Trung Quốc phải tuyệt đối bù trừ bằng việc thắt chặt mối liên hệ với Liên Xô. Như một người có trách nhiệm ở Hà Nội sau này đã nói: Trung Quốc sử dụng Việt Nam như một con cờ trên bàn cờ và rất nhiều người nghĩ rằng nguồn gốc lợi ích của Trung Quốc là việc họ muốn sử dụng Bắc Lào và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như là những nước láng giềng chống lại ảnh hưởng đang lớn lên của người Mỹ ở phía nam vĩ tuyến 17.
Còn đối với miền Nam? Người ta phải làm gì đây? Sự can thiệp của nước ngoài đã rõ ràng chưa? Có nên tập trung quân đội miền Bắc và vượt vĩ tuyến 17 không? Hay miền Bắc phải đợi một cuộc nổi dậy rộng khắp – một cuộc đồng khởi của nhân dân miền Nam đang rên xiết dưới ách độc tài họ Ngô? Muốn có chính sách đúng phải dựa trên những nguồn thông tin chính xác, nhưng ai trong số những người bênh vực chủ trương của họ có được những nguồn tin chính xác? Hồ Chí Minh không phải lúc nào cũng là người có thể áp đặt những quan điểm riêng của mình. Ông thường để các cấp dưới tranh luận với nhau cho đến lúc đã hình thành sự phân tuyến giữa các loại quan điểm, ông mới lên tiếng và dùng ảnh hưởng quyết định của mình để ủng hộ các quan điểm mà ông cho là đúng.
Đó là một nhóm có nhiều luồng ý kiến xen kẽ nhau. Người thứ hai trong hệ thống cấp bậc trong Bộ Chính trị, ngay sau Hồ Chí Minh là Lê Duẩn – Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, mà như các đồng chí của ông nhận thấy là ủng hộ đường lối cứng rắn đánh đổ chính quyền miền Nam. Ông sinh năm 1908(1) ở Trung Kỳ, con một nhân viên hỏa xa, gia nhập Đoàn Thanh niên Cách mệnh Đồng chí hội của Hồ Chí Minh năm 1928 và là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930. Bị bắt năm 1931 do những hoạt động chống Pháp, ông bị kết án 5 năm tù.
Bị bắt lại năm 1940, Lê Duẩn bị đưa ra Côn Đảo. Sau cách mạng Tháng Tám, ông trở thành Bí thư Đảng bộ miền Nam (còn gọi là Trung ương Cục miền Nam). Mong muốn sớm thống nhất nước nhà, ông phản đối Hiệp nghị Geneva. Do nhiệt thành của ông, ông được mệnh danh là “Ngọn lửa miền Nam”. Trong những năm 1954 - 1956, ông vẫn thường xuyên bênh vực đấu tranh vũ trang chống chế độ Ngô Đình Diệm. Được triệu tập ra Bắc năm 1957, ông trở thành Ủy viên Bộ Chính trị và thực tế là quyền Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng sau khi Trường Chinh thôi giữ chức. Chức vụ Tổng bí thư của Lê Duẩn được chính thức hóa năm 1960 tại Đại hội III của Đảng.
Những tuyên bố của Hà Nội trong các thời kỳ khủng hoảng năm 1955, 1963, 1965, 1968 và 1972 chứng tỏ một Lê Duẩn muốn mạo hiểm ở miền Nam hơn so với Võ Nguyên Giáp. Bộ Chính trị có khuynh hướng tán thành những chủ trương của Lê Duẩn.
Trường Chinh là nhân vật số ba trong Bộ Chính trị. Được xác nhận đúng là người theo chủ nghĩa Mao, chịu ảnh hưởng Nho học từ người cha, lúc đầu ông hoàn toàn chỉ tin tưởng vào việc duy trì và củng cố mối liên hệ giữa Việt Nam và cường quốc đông dân. Ông lớn tiếng ca tụng các trang bị quân sự và các cố vấn Trung Quốc sang giúp Việt Nam kháng chiến chống Pháp.
Đứng sau Trường Chinh trong Bộ Chính trị là Võ Nguyên Giáp, ở vị trí số bốn. Là Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng tư lệnh quân đội, Võ Nguyên Giáp là người giữ vai trò quan trọng. Ngay cả khi đồng nghiệp không đồng ý với ông, ông vẫn lắng nghe họ và phát triển quan điểm của mình.
Trong số các nhà lãnh đạo quan trọng còn có Lê Đức Thọ, tên thật là Phan Đình Khải, sinh năm 1910(2) ở Nam Định. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam từ rất sớm, ngay sau khi Đảng thành lập không lâu. Chẳng bao lâu ông bị thực dân Pháp bắt, đày đi Côn Đảo và nhiều nhà tù khác. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ông hoạt động ở Việt Bắc và sau này là người cộng tác với Lê Duẩn ở miền Nam. Năm 1954 ông được Trung ương Đảng triệu tập ra Hà Nội, được cử vào Bộ Chính trị và ở đó trong 20 năm, đứng đầu Ban Tổ chức Trung ương.
Tướng Nguyễn Chí Thanh sinh ở Trung Kỳ trong khoảng 1913 - 1915(3), là con một gia đình bần nông. Ông tham gia hoạt động cách mạng trong những năm 1930 và năm 1937 gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, phụ trách Thừa Thiên cho đến năm 1938, khi ông bị bắt và ngồi tù trong suốt thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã được thả và sau đó tham gia hội nghị đảng toàn quốc tại Tân Trào năm 1945 và cũng năm đó được chỉ định vào Ban chấp hành Trung ương Đảng. Ông phụ trách công tác đảng ở Trung Bộ một thời gian và gia nhập quân đội nhân dân giải phóng. Khoảng năm 1950, ông được giao phụ trách Tổng Cục Chính trị của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, có vai trò giám sát các mặt ý thức hệ của việc rèn luyện bộ đội. Ông được phong quân hàm đại tướng năm 1959, hai năm sau khi được vào Bộ Chính trị. Năm 1964, ông được bổ nhiệm Bí thư Trung ương Cục miền Nam và lo phụ trách tác chiến ở miền Nam. Phương pháp tác chiến của ông là sử dụng đơn vị lớn để chống lại quân Mỹ. Theo nhiều nguồn tin, ông mất tháng 7/1967 do trúng bom của máy bay Mỹ hoặc do cơn đau tim đột ngột hoặc do tràn dịch màng phổi trong lúc ông đang xây dựng những phương án đầu tiên của cuộc tiến công Tết Mậu Thân năm 1968.
Tướng Văn Tiến Dũng, một nhân vật khác sinh năm 1917 ở một thôn phía bắc làng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội trong một gia đình nông dân. Văn Tiến Dũng là một trong bảy anh em. Ở tuổi 16, sau sáu năm đi học, ông kiếm được việc làm và năm 1938, được nhận vào làm công nhân nhà máy dệt Cự Chung mà người chủ là một người Pháp. Văn Tiến Dũng gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1937 và hoạt động tích cực trong Liên đoàn Lao động – một tổ chức mặt trận của cộng sản tập hợp 26 công đoàn. Bị bắt hai lần nhưng lần nào ông cũng vượt ngục trốn thoát. Ông trở thành cán bộ cốt cán trong bộ máy của Đảng, được chỉ định là Bí thư xứ ủy Bắc Kỳ năm 1944. Tham gia quân đội, ông được đề bạt rất nhanh và được giao những nhiệm vụ cao vì Võ Nguyên Giáp công nhận khả năng của ông. Làm Phó bí Thư Quân ủy Trung ương năm 1946, ông được phong thiếu tướng trong lễ phong quân hàm đầu tiên năm 1948. Ông được cất nhắc rất nhanh: trung tướng năm 1954, thượng tướng năm 1959 và đại tướng năm 1974. Trong hai năm (1950 - 1951), ông chỉ huy Đại đoàn 320, trong năm 1953 ông trở thành Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong phần lớn cuộc đời binh nghiệp của mình, ông đã trở thành một người phó tin cậy của Võ Nguyên Giáp. Ông thường dễ dàng ngả theo ý kiến của thủ trưởng mà những học thuyết và nguyên tắc quân sự của Võ Nguyên Giáp rất hấp dẫn đối với ông. Tính tình dễ dãi và khiêm nhường, Văn Tiến Dũng viết nhiều nhưng thường ưa lặp lại những quan điểm của Võ Nguyên Giáp hoặc chỉ phát biểu về những vấn đề kỹ thuật hạn chế hơn là đưa ra những ý kiến độc đáo của riêng mình.
Cũng như Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng nghiêng về quan hệ với Liên Xô hơn với Trung Quốc. Năm 1951, ông trở thành Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong những năm tiếp theo sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Văn Tiến Dũng vẫn là Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 1960, ông là Ủy viên Trung ương chính thức. Cùng năm là Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị. Trong những năm đầu của chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1963 - 1973), Văn Tiến Dũng và Võ Nguyên Giáp chia nhau đảm nhiệm công tác quân sự của Đảng. Võ Nguyên Giáp chuyên trách từ vĩ tuyến 17 trở vào còn Văn Tiến Dũng lo việc phòng thủ miền Bắc chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ, công tác hậu cần trên đường mòn Hồ Chí Minh và chiến tranh ở Lào. Được giao trách nhiệm chiến trường năm 1971, Văn Tiến Dũng chỉ huy Chiến dịch xuân 1972, đánh chiếm thị xã Quảng Trị. Năm 1972, ông làm Ủy viên chính thức Bộ Chính trị. Năm 1974 Văn Tiến Dũng lên đường vào Nam chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ông chỉ đạo cuộc tiến quân vào Campuchia năm 1978 và bảo vệ Việt Nam chống Trung Quốc trong cuộc chiến tranh ngắn ngủi tháng 2/1979. Năm 1980, có một thời gian Văn Tiến Dũng làm Bộ trưởng Quốc phòng.
Phạm Văn Đồng, bạn đồng nghiệp lâu năm của Võ Nguyên Giáp, sinh năm 1906, quê tỉnh Quảng Ngãi. Cũng như Võ Nguyên Giáp, khi còn trẻ, Phạm Văn Đồng học Trường Quốc học Huế. Năm 1926, Phạm Văn Đồng đi Quảng Châu gia nhập Thanh niên Cách mệnh Đồng chí hội, rồi học trường quân sự Hoàng Phố. Ông quay về Việt Nam hoạt động trong một cơ sở Thanh niên Cách mệnh Đồng chí hội ở miền Nam. Năm 1931 ông bị bắt và bị đày đi Côn Đảo cho đến khi được ân xá năm 1937. Ông trở về Hà Nội một thời gian, cùng làm công tác Đảng và làm báo với Võ Nguyên Giáp cho đến năm 1940 khi hai người sang Trung Quốc. Tại đây, ông tiếp tục hoạt động tại miền nam Trung Quốc dưới cái tên Lâm Bá Kiệt. Năm 1946 ông được Hồ Chí Minh cử làm Bộ trưởng Tài chính. Vào Bộ Chính trị năm 1951, ông trở thành Bộ trưởng Ngoại giao năm 1953, Thủ tướng năm 1955 và ông giữ chức vụ này suốt 30 năm.
Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng cũng như nhiều nhà lãnh đạo khác gặp nhau trên hai điểm: trong chiến tranh, tầm quan trọng của chính trị là chủ yếu; Việt Nam có thể bị các nước lớn khác áp đặt, phải chấp nhận chia cắt tạm thời nhưng là một nước thống nhất không thể phân chia. Trường Chinh nhân danh tập thể mà phát biểu khi ông tuyên bố mạnh mẽ rằng: “Hành động quân sự chỉ có thể thành công khi có đường lối chính trị đúng đắn” và nói thêm: “Người ta không thể thắng lợi về chính trị mà không thắng lợi về quân sự”.
Vấn đề cấp bách nhất hiện nay là thống nhất đất nước. Văn hóa, tiếng nói, truyền thống, chính trị và tham vọng, tất cả hướng người miền Bắc đi vào công cuộc thống nhất. Người Việt Nam là sản phẩm của một nền văn minh có tiếng nói và giá trị đặc thù mà người ngoài không thể lấn lướt được. Dân tộc Việt Nam luôn là một, dù họ có bị nước ngoài đô hộ hay phải chia làm hai thực thể chính trị cạnh tranh nhau. Điều đó không chỉ là quan điểm Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và nhiều nhà lãnh đạo khác ở miền Bắc mà còn là quan điểm của những người có ý thức chính trị ở miền Nam. Cả hai “nửa” của đất nước đều tha thiết thống nhất. Hiện nay đất nước phải trải qua giai đoạn chia cắt tạm thời nhưng điều đó không đáng kể gì, nước Việt Nam bao giờ cũng là một, không ai có thể chia cắt được. Không phải vì chính phủ cộng sản đặt trụ sở ở Hà Nội mà những cựu chiến binh miền Bắc tự coi mình như những người nước ngoài đi chinh phục: đó là những người Việt Nam tìm kiếm sự thống nhất đất nước.
Những thành viên trong Bộ Chính trị không bao giờ coi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một thực thể chính trị hoàn chỉnh. Đối với Võ Nguyên Giáp, miền Bắc là “nửa nước được giải phóng” và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không phải cái gì khác hơn là cơ sở vững chắc để thống nhất nước nhà. Đối với ông, miền Bắc là “hậu phương lớn của quân đội”, là “căn cứ địa cách mạng của cả nước”. Đối với Võ Nguyên Giáp và các đồng chí của ông, một Việt Nam bị chia cắt là một nước đang khủng hoảng, bị hành hình một cách bất thường. Những nhà lãnh đạo ở miền Bắc cũng như ở miền Nam đều cho vĩ tuyến 17 chỉ là một quy chế do Hội nghị Geneva năm 1954 “áp đặt” một đường “giới tuyến quân sự tạm thời, trong bất kỳ trường hợp nào không được hiểu là một biên giới chính trị hay lãnh thổ”.
Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp đều đồng ý với nhau rằng mặc dù lãnh thổ bị chia cắt, nhưng trước hết phải củng cố miền Bắc như một thành trì của chủ nghĩa cộng sản, xây dựng cơ sở hạ tầng, khôi phục và phát triển kinh tế.
Còn có lựa chọn nào khác? Trung Quốc không thể ủng hộ lập trường của người miền Bắc cũng như không ủng hộ những việc làm của Việt Nam trên mặt quân sự ở miền Nam. Họ còn phải ưu tiên cho phục hồi đất nước sau chiến tranh chống Nhật và nội chiến kéo dài dẫn đến cách mạng 1949 và hậu quả của cuộc chiến tranh chống Mỹ viện Triều khiến họ chịu khá nhiều tổn thất. Tương tự như vậy, Liên Xô không thể hoàn toàn ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh, không muốn tham dự vào cuộc xung đột có thể biến thành chiến tranh thế giới thứ ba. Dù có thể giúp đỡ Việt Nam với quy mô lớn hơn, Liên Xô không để ai nghi ngờ về ý muốn của mình. Năm 1957, khi Liên Xô khẳng định ý định tìm kiếm sự ổn định ở khu vực Đông Dương và đề nghị cả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa gia nhập Liên Hợp Quốc như hai quốc gia riêng biệt. Chắc hẳn Bộ Chính trị ở miền Bắc phải miễn cưỡng quyết định để miền Nam phải tự xoay xở trong thời gian trước mắt. Trong lúc đồng bào của họ ở miền Nam có thể tự bảo vệ tại chỗ, nếu cần thiết họ sẽ phải dựa vào hoạt động của chính họ và vào chiến tranh du kích, để vào thời điểm thích hợp có thể tiến hành một cuộc đồng khởi lật đổ chế độ Diệm và thống nhất đất nước. Chiến lược đó của Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp chiếm ưu thế trong những năm 1954 đến 1959.
Theo lệnh của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, Việt Minh miền Nam trong những năm đầu sau Hiệp định Geneva duy trì hoạt động ở mức tối thiểu. Nhiệm vụ quan trọng nhất lúc này là lãnh đạo người dân nông thôn ở miền Nam có thái độ chính trị thích hợp. Cán bộ Việt Minh sống bình thường trong các thôn xóm, cày cấy, gặt lúa trên đồng ruộng, cung cấp gạo cho thị trường, sửa chữa nâng cao các công trình công cộng, nhà cửa, cung cấp thuốc men và chăm sóc y tế ở cơ sở. Qua đó họ tranh thủ được sự ủng hộ vững chắc cho sự nghiệp của mình trong hàng ngũ nông dân.
Hồ Chí Minh cho các đồng chí của mình ở miền Nam những chỉ thị rõ ràng. Trong các cuộc thảo luận chính trị với dân làng, họ phải nhấn mạnh đấu tranh dân tộc chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản. Không một trường hợp nào được lấy lại ruộng đất của nông dân. Trong mọi chừng mực phải tránh gây thái độ thù nghịch với những nhà chức trách địa phương, trái lại phải làm việc với họ và qua họ. Bạo lực chỉ được sử dụng có ý thức. Nếu thấy cần thanh toán một nhân viên của chính quyền cũ hay người của Chính quyền Sài Gòn cử về, phải dùng dao găm, nhất thiết không được dùng súng hay lựu đạn vì những vũ khí đó có thể làm chết những người vô tội ngẫu nhiên có mặt ở đấy, gây nên mối oán giận trong dân chúng, khiến nông dân quay lưng lại với cách mạng. Nếu trường hợp đó xảy ra, cán bộ phải bảo đảm rằng đã giải thích kỹ cho nông dân lý do tại sao họ không thể làm khác hơn là phải giết. Họ không được tham gia vào các hoạt động quân sự vì điều đó chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại. Hoàn toàn đơn giản là họ chưa đủ mạnh để đương đầu với quân lính của Ngô Đình Diệm.
Một cách bản năng, Diệm hiểu rõ rằng những người cộng sản nằm vùng là mối đe dọa nguy hiểm hơn bất kỳ đối thủ nào khác. Theo lời khuyên của Lansdale, Diệm không gọi họ là Việt Minh mà đặt một tên là Việt Cộng – Cộng sản Việt Nam. Cuối năm 1955, Diệm phát động một chiến dịch để loại trừ Việt Cộng và tuyên bố những địch thủ này thậm chí không được coi như con người nữa. Quân đội của Diệm mở những cuộc hành quân càn quét, truy lùng bắt bớ, chém giết họ trong những vùng mà họ có cơ sở. Diệm còn ra lệnh làm uế tạp và đập phá các tượng đài kháng chiến, san bằng các nghĩa trang – một hành vi dã man xúc phạm tình cảm thiêng liêng của người Việt Nam đối với người quá cố, phỉ báng tục lệ thờ cúng tổ tiên. Trong chiến dịch đó, quân đội Việt Nam Cộng hòa và Cơ quan đặc vụ (công an mật) của Ngô Đình Nhu giết hại một số lớn người bị vu là Việt Minh - Việt Cộng nằm vùng, theo ước tính có khoảng 20.000 đến 75.000 nạn nhân. Ngoài ra còn có 100.000 người khác bị bắt, đưa vào các trại cải huấn. Vào lúc chiến dịch kết thúc cuối năm 1958, chỉ còn khoảng 3.000 Việt Minh sống sót ở miền Nam Việt Nam.
Trong thời điểm căng thẳng và nguy hiểm đó, để bảo toàn lực lượng, Võ Nguyên Giáp lệnh cho cán bộ Việt Minh ở miền Nam Việt Nam rút về miền cao nguyên phía tây nam Trung Bộ. Quân đội bù nhìn và cố vấn Mỹ chắc chắn là ở lại vùng ven biển và thành phố. Việt Minh phải lập các an toàn khu và chỉ sau này mới mở rộng ảnh hưởng xuống vùng rừng núi và các làng ở đồng bằng sông Mê Kông. Muốn tấn công vào thành phố phải đợi thời gian sau này thuận lợi hơn.
Vào lúc chiến dịch chống những người cộng sản của Diệm lên cao nhất, giữa năm 1957 Việt Cộng phát động kế hoạch trả đũa. Mục tiêu của họ là nhằm vào những chức sắc trong làng được Sài Gòn trả lương và có nhiều hành vi tàn bạo nhất. Trong năm 1958, mặc dù số lượng ngày càng giảm sút vì hành động đàn áp của chính phủ Diệm, nhưng cán bộ Việt Minh vẫn trừng trị trên 1.000 tên ở cấp thấp của Việt Nam Cộng hòa. Số vụ xử tội tiếp tục tăng lên, 4.000 vụ trong năm 1959 và trong các năm tiếp theo. Những phương pháp của Diệm nhằm xoa dịu sự chống đối với chế độ chỉ càng làm cho dân chúng ở các vùng nông thôn xa lánh chính quyền. Đa số nông dân ở khắp nơi, kể cả cộng sản và không cộng sản đều giữ thái độ dửng dưng trước những đại biểu Chính quyền Sài Gòn bị trừng trị.
Diệm phản ứng đúng như Việt Cộng trông đợi. Ông nghĩ cuộc khủng hoảng là do nông thôn thiếu an ninh và ông chỉ định sĩ quan quân đội làm đại diện chính phủ. Đến năm 1962, trong 41 tỉnh trưởng thì 36 là sĩ quan quân đội trong khi nhiều sĩ quan khác giữ những vị trí trong bộ máy quan liêu ở nông thôn cho đến cấp huyện. Nói chung, họ là người Công giáo vì Diệm nghĩ rằng có thể tin vào họ nhưng họ lại không hiểu và thông cảm được dân chúng dưới quyền đa số là theo đạo Phật. Họ không chú ý đến nhu cầu kinh tế và xã hội của người dân vì sợ làm mất lòng Diệm. Tệ hơn nữa là họ sống như giữa vùng địch, luôn luôn ẩn mình trong các lô cốt có dây thép gai bao bọc và lính cầm vũ khí canh gác bên ngoài.
Trong những năm đen tối đó, Bộ Chính trị đã không ngừng giúp đỡ cho phong trào chống Diệm ở miền Nam. Đầu năm 1959, Võ Nguyên Giáp bắt đầu suy nghĩ về phương tiện gửi người và hàng từ miền Bắc vào miền Nam. Ngày 19/5, ông ra lệnh cho tướng Võ Bẩm nghiên cứu các phương án. “Bí mật và an toàn tuyệt đối là khẩu hiệu của chúng tôi”. Võ Bẩm miệt mài làm việc và chẳng bao lâu mở một con đường mòn khiêm tốn vào Nam. Công việc bắt đầu vào tháng 5/1959 và những người mở đường mòn ấy được biết đến với cái tên Đoàn 559.
Đoàn 759 được tổ chức vào tháng 7/1959 được giao nghiên cứu cách xâm nhập vào miền Nam bằng đường biển. Tháng 9, Võ Nguyên Giáp ra lệnh thành lập Đoàn 959 nghiên cứu việc tiếp tế cho các lực lượng vũ trang Pathet Lào. Võ Nguyên Giáp còn phái các đơn vị vũ trang đấu tranh bên cạnh các lực lượng yêu nước Lào, đảm bảo an ninh cho khu vực mở đường lập binh trạm của Đoàn 559.
Đặng Nghiêm Bái, một cán bộ cấp cao của Bộ Ngoại giao, nhớ lại: trong tháng 11 và 12/1959, Bộ Chính trị đã thông qua một nghị quyết quan trọng. Sau khi đánh giá các trào lưu ở miền Nam, Đảng kết luận đã đến lúc phải kêu gọi nhân dân nổi dậy lật đổ Ngô Đình Diệm là một tên độc tài bị cô lập và tàn bạo đang thực hiện cuộc đàn áp dã man đi từ tử hình đến chuồng cọp.
Võ Nguyên Giáp cung cấp viện trợ nhiều hơn nữa cho phong trào miền Nam. Ông ra lệnh cho một số cán bộ quân sự đã chiến đấu ở miền Nam và tập kết ra Bắc năm 1954 phải trở về miền Nam, theo từng tỉnh quê quán của họ ở miền Nam. Họ mang theo vũ khí do miền Bắc cung cấp hoặc trở về đào những chỗ cất giấu những vũ khí từ năm 1954 trước khi đi tập kết ra Bắc. Cuối năm 1960, số người vũ trang chống đối chế độ Diệm lên tới ít nhất 10.000 người. Dần dần họ kiểm soát các vùng rừng núi trong tỉnh Quảng Ngãi và rừng U Minh trong các tỉnh Kiên Giang và An Xuyên, Đồng Tháp Mười dọc biên giới Campuchia và phần lớn vùng đầm lầy Tây Nam Bộ. Nông dân ở phía nam vĩ tuyến 17 lúc đầu do dự, nhưng dần dần do công tác vận động tuyên truyền giác ngộ, họ đã ủng hộ chính quyền cách mạng. Việt Cộng kiểm soát ngày càng lớn nông thôn miền Nam.
Tức giận vì bất lực không diệt nổi Việt Cộng, Diệm cai quản phần lãnh thổ còn lại của đất nước với bàn tay ngày càng cứng rắn hơn nhờ 300 triệu đôla viện trợ của Mỹ về kinh tế và quân sự. Không phải vô cớ mà đầu óc nghi ngờ của Diệm luôn luôn bận rộn với việc thanh toán đối thủ, đối phó với các âm mưu lật đổ, ám sát và cách mạng. Các quyết định của Diệm không ngừng thu hẹp chỗ dựa của ông ta ở cơ sở. Ông ta đã đẩy ra khỏi chính phủ nhiều người có trình độ nghiệp vụ, những kỹ thuật viên tài giỏi, các chức sắc Phật giáo. Ông đã cho phép em ông là Ngô Đình Nhu lập ra đảng Cần lao Nhân vị và Diệm coi những ai không thể hay không muốn gia nhập đảng của ông là thuộc về cùng một loại như Việt Cộng – kẻ thù của quốc gia.
Ông đã có thể làm sống lại, bảo tồn và phát huy truyền thống cũ về dân chủ làng xã của nhân dân ông và đưa vào miền Nam một chương trình cải cách điền địa: nông dân chỉ trông chờ có thế để tuyên bố trung thành mãi mãi với chính phủ của ông. Cũng như trước đây, họ đã có thể coi người lãnh đạo là mang sứ mệnh thiên tử và họ phải ủng hộ ông. Đáng lẽ phải như thế, nhưng ông lại quay lưng với những khả năng đó, cấm đoán tuyển cử địa phương, cử người của phe cánh làm xã trưởng. Ông ủng hộ các điền chủ thu quá điền tô và chiếm đất của điền chủ khác, chia vụn ra cho người của phe cánh ông nhiều khi là tín đồ Công giáo di cư từ miền Bắc không được chút cảm tình nào của nhân dân miền Nam đa số theo Phật giáo. Diệm đuổi người dân ra khỏi ruộng đất của họ do tổ tiên để lại để ném vào các ấp chiến lược thực chất không hơn gì trại tập trung. Ở đó, nông dân sống chen chúc khốn khổ và tự hỏi nếu xét về toàn bộ họ còn có cách nào khác hơn là ngả vào vòng tay của Việt Cộng? Còn có gì phải ngạc nhiên khi thấy phần lớn giai cấp nông dân miền Nam có thái độ thù nghịch công khai hoặc thờ ơ với Chính phủ Sài Gòn?
Xung quanh Diệm chỉ còn thưa thớt vài cố vấn gợi ý cho ông thay đổi cách cai trị. Người nước ngoài duy nhất còn được Diệm tín nhiệm là Edward Lansdale thì ông đã về Mỹ năm 1957. Ngay cả trước khi ra đi, Lansdale cũng không còn giữ được ảnh hưởng với Diệm như trước đây. Trần Văn Đôn có một thời gian làm Bộ trưởng Ngoại giao của Diệm đã có nhiều dịp theo dõi tình hình trong thời gian cuối khi Lansdale còn làm việc cho Diệm. Một hôm Đôn hỏi Diệm giải thích về sự lạnh nhạt đó. Diệm trả lời: “Lansdale lộ mặt CIA quá và ông ta gây lúng túng cho chúng ta. Trong chính trị không có chỗ cho tình cảm”. Đôn nghĩ rằng một trong những lý do lý giải việc thất sủng của Lansdale là ông ta tìm cách ép Diệm quá đáng để Diệm sao chép những phương pháp của Magsaysay [ở Philippines]... Đôn nói: “Điều này thật sự đã xúc phạm Diệm”.
Diệm tỏ ra ít kính trọng và không thích những người Mỹ khác. Diệm thấy (không phải là không có lý do) họ (những người Mỹ) là những tay dốt nát tày trời về các vấn đề Việt Nam và ông đánh giá họ quá tự cao tự đại nghĩ rằng những gợi ý ngây thơ, ít thông tin phải được áp dụng ngay lập tức không được ngập ngừng hay rì rầm than thở gì. Thái độ đó càng được củng cố, Diệm càng quay về các thành viên trong gia đình họ Ngô. Anh cả Diệm là Ngô Đình Thục, Tổng giám mục ở Huế, tức là giám mục trông coi hết thảy Công giáo Việt Nam. Trong một nước người Công giáo được coi trọng hơn các công dân khác thì vị thế của Thục củng cố mạnh vị thế của Diệm và những giáo hữu khác. Diệm bổ nhiệm em út là Ngô Đình Luyện, người phát ngôn quốc tế của gia đình họ Ngô, làm đại sứ tại Anh và đại sứ lưu động ở phần còn lại của thế giới. Luyện rao giảng cho những ai muốn nghe ông ta về việc Chính quyền Sài Gòn phải tồn tại. Ông trở nên đặc biệt giàu có khi đầu cơ đồng bạc Đông Dương bằng cách sử dụng những thông tin về tỷ giá chênh lệch do các anh ở trong nước cung cấp cho.
Người em áp út của Diệm là Ngô Đình Cẩn ít học, sống ẩn dật với mẹ ở Huế. Được mệnh danh là quân phiệt miền Trung, tức là khu vực giữa vĩ tuyến 17 và tỉnh Phan Thiết. Nhờ vị thế và được sự tín nhiệm của Ngô Tổng thống, Cẩn là người rất giàu có, có quân đội riêng và có cả công an mật. Diệm cho Cẩn được toàn quyền xử lý các công việc miền Trung.
Ngô Đình Nhu là người em trai kế cận với Diệm, nghiện thuốc phiện và thích làm lớn – một kiểu hoang tưởng tự đại, là người cộng tác gần gũi nhất và tâm đắc nhất của Diệm. Hai anh em Diệm - Nhu trở thành cặp đôi không thể tách rời. Nhu là ông chủ chính trị từ tỉnh Phan Thiết đến bán đảo Cà Mau. Vợ Nhu, Trần Lệ Xuân, người ta quen gọi là bà Nhu, làm chức trách nữ chủ nhà tiếp khách cho Diệm, tự đánh giá mình quá cao và đôi khi cư xử như mình là hiện thân thời hiện đại của Hai Bà Trưng. Tự xưng là người bảo vệ nguyên tắc đạo đức phụ nữ, bà ta sử dụng đội nữ binh của mình để cấm đoán khiêu vũ, mang nịt vú và tô son môi, uốn tóc như tổ ong. Diệm thu mình bên trong cái tổ kén gia đình ấy và ngày càng có thái độ thù nghịch với người nước ngoài. Đó không phải là tình hình cho phép Việt Nam Cộng hòa có thể tồn tại lâu dài.
Tình hình chính trị dưới chế độ độc tài của Diệm ngày càng xấu. Tháng 1/1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ở miền Bắc quyết định phát động khởi nghĩa vũ trang ở miền Nam và chính thức tuyên bố tại Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15, tháng 5 năm đó rằng những kết luận của Hội nghị phải thành hành động. Tháng 7, Võ Nguyên Giáp cử 4.000 cán bộ quê ở miền Nam thâm nhập Việt Nam Cộng hòa, rất nhiều người về phục vụ ở quê nhà. Đến nay Việt Minh - Việt Cộng ở miền Nam đã cảm thấy đủ mạnh để bắt đầu tiến công vào các căn cứ quân sự của quân đội Việt Nam Cộng hòa và các cơ quan chính phủ. Ngày 8/7/1959 lần đầu tiên họ tấn công người Mỹ. Quân du kích đột nhập vào hàng rào trụ sở Phái đoàn Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ (USMAAG) tại căn cứ không quân Biên Hòa ở phía bắc Sài Gòn, tiêu diệt hai người Mỹ của không lực Hoa Kỳ là thiếu tá Dale Buis, sĩ quan chuyển sang ngành an ninh quân đội và trung sĩ nhất Chester Ovnand.
Nhịp độ cách mạng tăng dần. Ngày 5/9/1960, tại Đại hội III của Đảng, Chính phủ Hồ Chí Minh ra tuyên bố ủng hộ cuộc nổi dậy ở miền Nam. Đại hội tuyên bố không còn chút hy vọng nào thực hiện mục tiêu thống nhất đất nước bằng tuyển cử trên phạm vi cả nước. Chỉ có đấu tranh vũ trang mới có thể giành thắng lợi cuối cùng.
Tháng 12/1960, theo một thông báo công bố tại Hà Nội, một hội nghị họp tại “một nơi ở miền Nam” gần biên giới Campuchia đã thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. “Mặt trận” đó cũng như nhiều mặt trận đã tồn tại từ hai ba chục năm trước là một sách lược quen thuộc của cộng sản nhằm đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, các nhóm chính trị hoặc tổ chức quần chúng không phân biệt xu hướng chính trị, có tinh thần quốc gia chống lại chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Tất cả các tổ chức đều không tín nhiệm cách thức cai trị của Diệm và mong muốn đưa miền Nam khỏi sự khống chế của chính quyền Ngô Đình Diệm. Đó là các phong trào nông dân, thanh niên, phụ nữ, trí thức và nghệ sĩ, những người hoạt động giáo dục, nghệ thuật, tôn giáo, chính trị. Mặt trận cũng kêu gọi các lực lượng vũ trang của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên.
Ngay từ đầu, những nhà lãnh đạo cộng sản miền Bắc đã kiểm soát Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Mọi sáng kiến và sự lãnh đạo đều từ Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam. Cũng như Mặt trận Dân tộc giải phóng, Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam chính là một cách khôn khéo được Bộ Chính trị ở miền Bắc lập ra. Được tổ chức như thế, Mặt trận Dân tộc giải phóng và Đảng Nhân dân Cách mạng có thể yêu cầu “độc lập” trước thế giới. Đó là những phong trào sinh ra ở miền Nam và nhằm báo cho thế giới biết rằng Bắc Việt Nam không phải là đang phá hoại hiệp định Geneva, gửi lực lượng quân sự vào nam vĩ tuyến 17. Các hoạt động quân sự ở miền Nam Việt Nam giờ được giao trực tiếp cho đại tướng Nguyễn Chí Thanh.
Các đơn vị vũ trang ở miền Nam được miền Bắc chi viện về người và vũ khí, tăng cường hoạt động. Càng ngày Diệm càng mất dần kiểm soát trên phần lãnh thổ của mình. Ông đã không thể tin cậy vào quân đội của chính ông. Tháng 11/1960, các đơn vị quân đội thù địch với ông bao vây Dinh Tổng thống để đòi cải cách. Ông chỉ được cứu thoát nhờ các đơn vị trung thành với ông trở về kịp thời.
Sợ rằng hoạt động ngày càng tăng của Việt Cộng và sự ly khai phổ biến khắp miền Nam chỉ là khúc dạo đầu cho một cuộc tiến công từ miền Bắc, tướng Mỹ Samuel Williams chỉ huy Phái đoàn Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tăng cường nỗ lực để huấn luyện binh sĩ cho quân đội Việt Nam Cộng hòa. Ông muốn có một đội quân hợp lý hóa, bớt hào nhoáng, có khoảng 150.000 người sao cho họ là bản sao y hệt lính Mỹ giống như những người Mỹ chống lại Liên Xô trên các cánh đồng châu Âu. Trong thời gian phục vụ ở Việt Nam, Williams đã thành công ở chỗ làm cho quân đội Việt Nam Cộng hòa mất luôn cả kỹ thuật chiến đấu đã lĩnh hội được chút ít trong chiến tranh du kích.
Một số bạn cũ của Diệm cũng mất hết hy vọng vì tình hình đang tiếp tục xấu đi. Edward Lansdale lúc này đang phụ trách các công việc với Cu Ba trong Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, quay trở lại Việt Nam trong một chuyến thanh tra được tổ chức vội vã từ ngày 2 đến ngày 14/1/1961. Ông luôn luôn tuyên bố không muốn có mặt ở Washington khi cuộc đổ bộ được CIA ủng hộ vào bãi biển Playa Giron (Vịnh Con Lợn) ở Cu Ba đang diễn ra. Ông không muốn bị khiển trách vì thất bại của mình. Bản báo cáo đệ trình lên trên sau khi ông trở về vẽ lên một bức tranh ảm đạm, mặc dù ông vẫn nghĩ rằng còn có thể đôi chút hy vọng vào Diệm và chế độ của ông ta.
Phớt lờ những lời khuyến cáo rõ ràng của Lansdale, Tổng thống mới được bầu là John Kennedy vẫn quyết định tăng thêm cố vấn Mỹ được bổ nhiệm bên cạnh Diệm. Do vậy, đến ngày 30/12/1960, số cố vấn Mỹ đã lên tới 900 người. Một năm sau con số này lên đến 3.200 người. Đến ngày 31/12/1962, Kennedy bổ nhiệm 11.300 cố vấn quân sự Mỹ sang giúp Diệm. Khi Kennedy bị ám sát ở Dallas, số quân nhân có mặt ở miền Nam Việt Nam đã lên tới 16.300 người. Trong hai năm 1961 và 1962 đã có 32 người Mỹ thiệt mạng. Lầu Năm Góc quyết định lập Bộ Chỉ huy Viện trợ Mỹ ở Việt Nam (USMACV) thay cho Phái đoàn Viện trợ Quân sự (USMAAG) đã bị lôi cuốn vào bãi lầy Việt Nam.
Võ Nguyên Giáp tiếp tục nêu cao quan điểm của mình về những việc cần làm ở Nam Việt Nam. Năm 1961, ông (hoặc những người phụ tá của ông trong Bộ tham mưu) tập hợp các bài viết của mình thành một tuyển tập nhan đề Chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân mà báo Mỹ Herald Tribune đánh giá là “cuốn sách giáo khoa về chiến tranh du kích, trở thành kim chỉ nam hoạt động cho những người lãnh đạo cách mạng ở miền Nam Việt Nam”. Qua các trang viết, Võ Nguyên Giáp nói về cuộc chiến tranh chống Pháp, kể lại ông đã chiến thắng Điện Biên Phủ như thế nào, giải thích tại sao phải đặt chính trị lên trên hoạt động quân sự và sự cần thiết phải chiến đấu lâu dài để tiêu hao lực lượng địch, giành thắng lợi cho chiến tranh nhân dân.
Cũng trong năm đó, Võ Nguyên Giáp bắt đầu cải thiện các con đường tiếp tế cho miền Nam. Cần phải mở rộng con đường mòn ở phía tây con đường ban đầu đi qua Lào và Campuchia với nhiều đường nhánh xuất phát từ đường chính. Đoạn chót của con đường mòn này là An Lộc, cách Sài Gòn 120 km về phía bắc, nối liền với các con đường bí mật dẫn đến căn cứ Việt Cộng ở Củ Chi không xa thủ đô về phía đông bắc.
30.000 dân công tham gia dự án mở rộng đường tiếp tế vào miền Nam. Khi hoàn thành dự án, họ đã xây được hàng nghìn cây số đường kiên cố được ngụy trang kỹ càng, có thể lưu thông hàng nghìn xe tải, xe tăng và các khẩu pháo. Dọc đường cứ trăm mét lại có hầm trú ẩn phòng tránh máy bay. Các cầu ngầm dưới mặt nước bắc qua hàng trăm sông suối. Khi lực lượng làm đường nối liền các đoạn ngắn, thời gian hành trình giảm đi rõ rệt.
Cuối năm 1962, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tăng cường phản đối các hoạt động của Mỹ ở Việt Nam. Tháng 9, Võ Nguyên Giáp gửi một thông điệp khẩn cho đại sứ Ấn Độ R. Goburdhun - Chủ tịch Ủy ban Kiểm soát và Giám sát quốc tế về việc thi hành Hiệp định Geneva. Võ Nguyên Giáp đưa ra nhiều lời tố cáo: nào là các đơn vị hải quân Mỹ ngày 17/9 đã đưa vào cảng Sài Gòn 33 trực thăng chiến đấu và 500 quan, quân lính. Nào là số lính Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam nay đã vượt con số 10.000 so với tháng 7 mới chỉ là 8.000.
Ông cũng phàn nàn việc tướng Paul Harkins, Chỉ huy trưởng cơ quan viện trợ Mỹ trong tháng 8 đã ra lệnh cho một số đơn vị lính Mỹ tham gia trực tiếp chiến đấu. Ông cũng lưu ý việc tuần trước tướng Mỹ Maxwell Taylor đã thăm Sài Gòn. Võ Nguyên Giáp nhận xét: “Những sự việc đó chứng tỏ Hoa Kỳ đã sẵn sàng mở rộng can thiệp vũ trang vào miền Nam Việt Nam, gây nguy cơ mở rộng lò lửa chiến tranh…” Ông tố cáo những hành động ấy vi phạm điều 17, 18 và 19 Hiệp định Geneva về Đông Dương.
Ngày 22/12, trong bản nhật lệnh nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập quân đội, Võ Nguyên Giáp nói: “Miền Bắc tích cực đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà. Ở miền Nam, tiếc thay Hoa Kỳ đã tiến hành đủ loại âm mưu độc ác và tàn bạo để dập tắt mọi hy vọng chấm dứt tình trạng chia cắt hai miền ở Việt Nam”. Ông kêu gọi những người yêu nước ủng hộ phong trào đấu tranh cho độc lập và dân chủ, tăng cường cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu chặn đứng bàn tay hiếu chiến của đế quốc, đập tan các ý đồ đen tối của chúng. Ông hứa hẹn nếu muốn, người dân tích cực học tập chính trị, tăng gia sản xuất và tiết kiệm thì sẽ có nhiều tiến bộ.
Ngày hôm sau trong chiêu đãi mừng tướng Pavel Ivanovich Batov, Phó Tổng Tham mưu trưởng quân đội Liên Xô, Võ Nguyên Giáp nói quân đội của ông học tập, rèn luyện để nâng cao tính chuyên nghiệp và trình độ chiến đấu. Ông khen ngợi người dân miền Bắc luôn luôn cảnh giác làm thất bại kế hoạch của Mỹ - Diệm, một chế độ ruỗng nát, phái biệt kích gián điệp ra miền Bắc. Rồi trong một lúc bất ngờ nhất, ông nhắc lại câu ngạn ngữ: “Kẻ gieo gió ắt sẽ gặp bão”.
Ngày 26/12 năm đó, Võ Nguyên Giáp lại gửi cho Goburdhun một thông điệp mới lưu ý Ủy ban quốc tế về những ý đồ đen tối của Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm. Ông tóm tắt những hoạt động của người Mỹ trong suốt năm qua, tăng nhanh nhịp độ đổ vũ khí và dụng cụ chiến tranh vào miền Nam Việt Nam với hàng tấn đạn dược cho lực lượng mặt đất, hàng trăm máy bay chiến đấu, máy bay trực thăng và vũ khí hóa học, bom na-pan, các hệ thống viễn thông điện tử nối liền các căn cứ không quân Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Đà Nẵng. “Người Mỹ và quân đội bù nhìn Việt Nam Cộng hòa”, Võ Nguyên Giáp nói, “đã mở 11.000 cuộc hành quân với quy mô tiểu đoàn hay hơn nữa để càn quét, bắn phá. Các ấp chiến lược thực tế là những trại tập trung trá hình. Cuộc chiến tranh xâm lược đó là việc làm của Chính quyền Kennedy đe dọa nghiêm trọng hòa bình, vi phạm điều 12 của Hiệp định Geneva về Đông Dương”.
Võ Nguyên Giáp chào mừng Tết năm 1963 bằng cách viết bài “Năm mới, thắng lợi mới” đăng trên báo Quân đội nhân dân, nêu những thành tích đã đạt được trong năm qua và giải thích miền Bắc đang xây dựng cơ sở vật chất như thế nào. “Mỗi khi xuân về Đảng ta lại có sức mạnh mới. Chủ nghĩa cộng sản là mùa xuân của nhân loại”. “Tất cả những cái đó chứng tỏ nhân dân miền Bắc tiến dần lên một cuộc sống dễ chịu và hạnh phúc. Nhưng tại miền Nam, Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược không tuyên bố. Mỹ chi 1,5 triệu đôla mỗi ngày để ủng hộ chính phủ bù nhìn trong khi họ dấn sâu vào vũng lầy đã chôn vùi thực dân Pháp”. Miền Bắc, theo lời Giáp, sẽ không bao giờ quên miền Nam vì đó là “thành đồng của nước nhà”. Ông đảm bảo với độc giả: “Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về chúng ta”.
Càng ngày điều kiện chính trị ở miền Nam càng trở nên tồi tệ. Diệm sống trong cơn hoảng loạn và bỏ tù hay đày đi biệt xứ bất kỳ ai dù chỉ mới hé ra một chút đối lập. Các tướng lĩnh của ông cằn nhằn nhưng cách điều khiển quân đội của họ là chuyện đại bịp và binh lính chiến đấu không có hiệu quả. Trận Ấp Bắc ngày 2/1/1963 trong tỉnh Định Tường gần Đồng Tháp Mười là một thí dụ. Hôm đó, 2.000 lính của sư đoàn 7 quân đội Việt Nam Cộng hòa mặc dù có kế hoạch tác chiến hẳn hoi đã từ chối không chịu tấn công tiểu đoàn 514 của Việt Cộng cố thủ trong một làng mang tên Ấp Bắc dọc một con kênh dài một cây số rưỡi. Lính Việt Cộng giữ vững vị trí, hạ năm trực thăng và bắn thiệt hại chín chiếc khác, bắn thủng vỏ xe bọc thép M.113 đi yểm hộ, giết pháo thủ và uy hiếp lái xe. Lính Cộng hòa không chịu tiến lên. Việt Cộng giết và làm bị thương 200 lính Cộng hòa, ba cố vấn Mỹ. Quân đội Việt Nam Cộng hòa khi gặp Việt Cộng gồm đa số là quân từ miền Bắc vào, tỏ ra hoảng sợ, tinh thần chiến đấu, cơ hồ tan rã.
Bộ Chính trị ở miền Bắc nhận thấy nhân dân miền Nam dưới ách thống trị của Diệm đã cảm thấy không kiên nhẫn được nữa. Cuộc khủng hoảng Phật giáo mùa hè năm 1963 càng khích động người dân miền Nam. Năm đó, kỷ niệm lần thứ 2587 ngày Phật Đản, Diệm ngăn cấm hoạt động của Phật tử diễn ra dưới hình thức các đám rước mang theo nhiều cờ và đốt pháo. Ngày 8/5 trên một nghìn người phản đối tụ tập trước đài phát thanh của chính phủ ở Huế và kiên quyết không chịu giải tán. Lính Cộng hòa bắn xả vào đám đông giết chết tám người. Ngày hôm sau, trên một nghìn Phật tử giận dữ đòi đại diện chính phủ công khai xin lỗi và đòi bồi thường cho gia đình nạn nhân. Các cuộc tuyệt thực nổ ra khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa, quân đội Cộng hòa đối phó lại bằng cách huy động xe bọc thép, sử dụng cả chó nghiệp vụ và hơi cay.
Ngày 11/6/1963, Hòa thượng 73 tuổi Thích Quảng Đức dẫn đầu đoàn đệ tử đi đến phố Phan Đình Phùng ở Sài Gòn. Trước con mắt của các nhà báo, một nhà sư khác đổ xăng vào Thích Quảng Đức để ông bật diêm xòe lửa rồi tự thiêu, lấy cái chết của mình biểu thị phản đối các hoạt động dã man của Diệm. Nhiều vụ tương tự tử khác liên tiếp xảy ra. Nhân dân thế giới khiếp sợ, có thể nhìn rõ cảnh tự thiêu được truyền đi khắp thế giới trong chương trình truyền hình. Diệm luôn ngoan cố, còn tỏ thái độ ngờ vực hơn. Giữa tháng 8, Diệm ban bố thiết quân luật, tạm ngừng mọi quyền tự do công dân và cấm các cuộc họp công cộng. Bà Nhu, lúc này đang ở Hoa Kỳ đã nói những lời đùa cợt tục tĩu đối với những vụ tự thiêu. Ngô Đình Nhu giúp anh gia tăng các vụ đàn áp tín đồ Phật giáo. Quân đội Việt Nam Cộng hòa cũng vào cuộc. Được những lời hứa hẹn kín đáo của Đại sứ Mỹ mới là Henry Cabot Lodge bảo đảm qua nhân viên CIA Lucien Conein truyền đạt, Trần Văn Đôn và Dương Văn Minh tổ chức nhóm đảo chính quân sự lật đổ Ngô Đình Diệm. Ngày 1/11/1963 họ giết hai anh em Diệm, Nhu.
Diệm chết, chính quyền miền Nam rơi vào tình trạng hết sức lộn xộn. Trong lúc các tướng lĩnh đang tranh giành nhau thế lực và quyền hành để cố lập lại tình hình, cai trị đối với những người dân đã quá nản lòng, thì Việt Cộng đã làm chủ được một phần rộng lớn ở nông thôn. Còn quân đội Việt Nam Cộng hòa thì chỉ đủ sức kiểm soát một vài vùng chủ yếu ban ngày còn ban đêm hoàn toàn thuộc về Việt Cộng.
1. Lê Duẩn sinh năm 1907 (BT).
2. Lê Đức Thọ sinh năm 1911 (BT).
3. Nguyễn Chí Thanh sinh năm 1914 tại Thừa Thiên Huế (BT).
Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt
- Tác giả : Ngô Văn Phú
- Danh mục : Lịch sử