Chiến thắng bằng mọi giá
Chương 20 “Sông có thể cạn, núi có thể mòn”
Chương 20 “Sông có thể cạn, núi có thể mòn”
Trong những năm đầu chiến tranh, các đơn vị Việt Cộng và quân chủ lực từ miền Bắc vượt vĩ tuyến 17 vào sử dụng Chiến khu C, Chiến khu D và cả khu Tam giác Sắt chỉ cách Sài Gòn 40 km làm căn cứ xuất phát cho các cuộc tiến công trên toàn miền. Cả ba địa điểm này rộng tới trên 3.000 km vuông, được bảo vệ cẩn mật vì nhiều lý do. Địch không dám bén mảng tới. Như năm 1967, quân Mỹ đổ bộ vào ngày càng nhiều, hỏa lực mạnh, có quân Việt Nam Cộng hòa phối hợp mở các cuộc hành quân càn quét vào khu căn cứ để phá hủy cơ sở hạ tầng và truy lùng, tìm kiếm, bao vây và tiêu diệt quân chủ lực Việt Cộng. Đã có nhiều cuộc đụng độ nhưng các cuộc hành quân tìm - diệt của Westmoreland đều không đạt kết quả. Mỹ - ngụy quân Sài Gòn rút quân về, Việt Cộng lại trở về xây dựng lại căn cứ. Nhưng trước tính cơ động cao dựa vào hỏa lực phi pháo mạnh của quân Mỹ, Võ Nguyên Giáp thấy rằng cần phải chuyển cả căn cứ sang bên kia biên giới trong miền rừng rậm trên lãnh thổ Campuchia thường được gọi là vùng Mỏ Vẹt và vùng Lưỡi Câu qua đường mòn Sihanouk nối liền với cảng Sihanouk trên vịnh Thái Lan để nhận tiếp tế của Bắc Việt Nam chở bằng đường biển và nối với phía đông bắc bằng hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh từ miền Bắc theo dọc dãy Trường Sơn và Lào.
Khi những căn cứ mới được xây dựng xong, nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập quân đội, Võ Nguyên Giáp viết một bài quan trọng đăng nhiều kỳ trên báo Nhân dân và Quân đội nhân dân, một lần nữa kêu gọi sự chú ý đến chiến tranh tiêu hao có thể đưa đến thắng lợi quân sự trong thời gian tương đối ngắn và tăng cường việc chuẩn bị cho cuộc nổi dậy ở miền Nam nhưng vẫn nhấn mạnh cần “hành động dần từng bước”. Ông viết: “Tình trạng chênh lệch về trang bị kỹ thuật giữa hai bên khiến một cuộc tiến công lớn trên nhiều hướng là nguy hiểm. Đã đến lúc phải đẩy mạnh việc chuẩn bị về tư tưởng và hành động để một ngày kia, miền Nam sẽ được giải phóng khỏi chủ nghĩa đế quốc và chính quyền bù nhìn tay sai, nhưng trước mắt chưa đến lúc mở những cuộc tiến công quy mô lớn chống lại quân Mỹ”.
Năm 1969 là một năm quá độ đối với cộng sản và đối với Mỹ. Trong lúc Hoa Kỳ chuẩn bị rút quân và ra sức thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh thì Võ Nguyên Giáp cũng tranh thủ cơ hội của năm 1969 để củng cố và tập hợp lực lượng cho quân đội nghỉ ngơi, bù lại những tổn thất trong trận Khe Sanh và cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, chuẩn bị cho các hoạt động tác chiến sẽ diễn ra vào năm sau, năm 1970. Về mặt chiến thuật, lực lượng của ông có lợi thế hơn quân Mỹ và ngụy quân Sài Gòn. Quân đội của ông có tuyến phòng thủ ổn định và xác định rõ ràng từ dọc vĩ tuyến 17. Nhưng chính khu vực giới tuyến cũng có nhiều khe hở để quân chủ lực Bắc Việt cùng các đoàn xe vận tải vượt qua dễ dàng. Quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa luôn ở tư thế đề phòng. Tuy quân số đông nhưng họ buộc phải phân tán trên một khu vực rộng để tuần tra và phòng thủ. Lực lượng của Võ Nguyên Giáp với những vùng đất thánh an toàn nên rảnh tay hơn để hành động. Họ có thể tập trung lực lượng bất cứ lúc nào họ muốn để triển khai hoạt động trên toàn miền Nam. Võ Nguyên Giáp được thả sức khai thác chỗ mạnh của ông là có tài đánh tạt sườn.
Trước đây, Võ Nguyên Giáp chỉ chú ý đến chiến trường miền Nam, nay do phải mở rộng đường tiếp tế qua nước Lào cho căn cứ địa mới xây dựng trên lãnh thổ Campuchia nên ông phải chú ý đến các chiến trường Lào và Campuchia.
Trước đây, hoạt động của quân Bắc Việt ở Lào chỉ giới hạn vào việc cùng đồng minh Pathet Lào bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh và ở Campuchia là bảo vệ khu căn cứ – đất thánh của Việt Cộng. Nhưng đến năm 1970, Võ Nguyên Giáp chuẩn bị tiến công quân sự để đánh chiếm Nam Lào. Ông cũng cho mở đường thủy từ địa phận Bắc Việt Nam vào Campuchia qua sông Se Kong và Mê Kông. Nếu thành công sẽ tạo sức uy hiếp đối với các tỉnh ở đông bắc Campuchia. Các cuộc tiến công vào Angkor Wat nhằm bảo vệ đoạn đường mòn Sihanouk có tầm quan trọng sống còn đến việc duy trì “đất thánh” trên đất Campuchia.
Để biết rõ kẻ thù hơn nữa, Võ Nguyên Giáp đến thăm một phi công Mỹ bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội, bị thương và đang được chăm sóc tại một bệnh viện Hà Nội. Viên phi công không nhận ra Võ Nguyên Giáp đang đứng bên giường bệnh, hôm đó ông mặc thường phục (dù có mặc quân phục, anh ta cũng không chắc đã biết đó là Đại tưởng vì ngoài lễ lạt chính thức, các sĩ quan quân đội Việt Nam đều không đeo lon cấp bậc). Võ Nguyên Giáp đã nói với anh ta: “Người ta đưa tin anh đã về đến căn cứ an toàn. Tại đây tôi mới thấy là anh an toàn trở về khách sạn Hilton Hà Nội (tên chỉ nơi giam giữ tù binh Mỹ).”
Nhiều năm sau, nhớ đến sự kiện này, Võ Nguyên Giáp nói: “Chúng tôi đã học được cách hạ máy bay Mỹ với vũ khí thông thường. Các bạn có biết tại sao không? Đó là do chúng tôi có quyết tâm và có tinh thần sáng tạo bắt nguồn từ chủ nghĩa anh hùng cách mạng”. Ông nói, người Mỹ đã mất nhiều máy bay trong các phi vụ đó. Trong khi nghiên cứu các bản đồ và biểu đồ thu được trong các máy bay Mỹ bị bắn rơi chỉ rõ những điểm cần bắn phá, ông biết rằng cơ quan tình báo Mỹ đã phát hiện địa điểm và sự bố trí các tên lửa. Nhiều năm sau, ông suy nghĩ về giá trị của các tài liệu thu được của địch: “Tôi đã xem lại thì thấy một số vị trí đặt tên lửa của chúng tôi đều đã bị lộ mục tiêu và một số khác không bị lộ vì một số trận địa chỉ là giả, chúng tôi đã cố ý để lộ liễu, còn với một số trận địa thật thì chúng tôi ngụy trang rất kỹ. Chúng tôi giả vờ làm như chúng tôi có nhiều tên lửa hơn là thực lực của chúng tôi”. Rồi ông nói thêm: “Cậu con trai út của tôi đã đến tận chỗ máy bay rơi để lấy những tài liệu mật và đem về cho tôi nghiên cứu. Khi tôi thấy những tài liệu đó đều đóng dấu “bảo mật”, tôi có nói với nó: “Có lẽ Lầu Năm Góc có ý muốn đặt Bộ Quốc phòng của chúng ta vào trường hợp ngoại lệ” (nghĩa là để chúng ta được đọc những tài liệu “tuyệt mật” ấy).
Được những thắng lợi mới cổ vũ, Võ Nguyên Giáp bằng lòng tiếp một đoàn đại biểu Tổ chức giải phóng Palestin (PLO) mới đến Hà Nội và là nhóm Ả rập thứ hai được Võ Nguyên Giáp tiếp trong mấy tháng qua. Người đứng đầu của đoàn đại biểu PLO này là Abu Ammar, bí danh của Yasser Arafat. Võ Nguyên Giáp đã tiếp Arafat tại Bộ Quốc phòng và sau khi chào hỏi xã giao, ông đã nói khá dài. Võ Nguyên Giáp nói với ông rằng chỉ có hai điều chủ yếu trong chiến tranh nhân dân: tổ chức và tổ chức. “Các bạn hãy chiến đấu với bất kỳ phương tiện nào cho phép giành thắng lợi. Nếu chiến tranh chính quy cho phép, bạn hãy tiến hành chiến tranh chính quy. Nếu bạn thấy không thể thắng bằng các phương pháp kinh điển thì hãy từ bỏ chớ làm! Mọi phương thức dẫn đến thắng lợi đều tốt cả. Chúng tôi chiến đấu với các phương thức quân sự và chính trị, với sự giúp đỡ và ủng hộ của quốc tế”.
Tổng thống Nixon quyết tâm không để kéo dài hơn nữa các cuộc tiến công của Võ Nguyên Giáp ở Lào và Campuchia, ông ra lệnh tấn công quân sự ở hai nước này. Được máy bay Mỹ yểm trợ, ngụy quân Sài Gòn vượt biên giới đánh vào vùng Mỏ Vẹt ở Campuchia trong khi các đơn vị bộ binh Mỹ của tướng Abrams đánh vào vùng Lưỡi Câu được xác nhận là căn cứ của Trung ương Cục miền Nam. Ngụy quân bắt đầu triển khai ngày 29/4, còn quân Mỹ thì lên đường ngày 1/5. Có thể sẽ có những cuộc giao chiến lớn nếu lực lượng của Võ Nguyên Giáp cố bám vào căn cứ. Nhưng sau hai ngày giao chiến kịch liệt, Võ Nguyên Giáp ra lệnh bỏ lại doanh trại, kho tàng, bệnh viện và cả sở chỉ huy đã được xây dựng bề thế rồi rút sang phía đông, lùi sâu vào lãnh thổ Campuchia. Rất nhiều người đã không đi lọt. Abrams khẳng định đã giết được 11.000 quân giải phóng, bắt sống 2.500 người, nhưng những con số này đã bị các nhà phân tích của CIA bác bỏ ngay, nhấn mạnh rằng con số của Abrams đưa ra bao gồm cả dân thường. Đến ngày 3/5, chiến dịch này kết thúc, các cuộc tiến công phối hợp giữa quân Mỹ và ngụy quân chỉ đạt được kết quả khiêm tốn là tịch thu các kho đạn có súng cỡ nhỏ, súng liên thanh hạng nhẹ và hạng nặng cùng hàng ngàn viên đạn súng cối và gạo. Nhà cửa trong khu căn cứ đều bị san phẳng và bị đốt cháy. Quân Mỹ và ngụy quân cuối cùng cũng rút khỏi Campuchia vào cuối tháng 6. Sự đột nhập vào Campuchia đã giúp Mỹ trong chiến lược rút quân. Nếu quân giải phóng mở cuộc tấn công nữa theo kiểu tấn công Tết Mậu Thân thì Việt Nam hóa chiến tranh sẽ bị phá sản về chính trị ở Hoa Kỳ và về quân sự ở Việt Nam.
Mọi người đều không lý giải giống nhau đối với cuộc hành quân mạo hiểm đó. Jean Lacouture viết trên Foreign Affairs rằng hành động của Nixon đã thay đổi về bản chất chiều hướng của cuộc chiến tranh bằng cách biến cuộc chiến tranh Việt Nam trở thành cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai. Theo sự phân tích đó, thì cuộc hành quân sang Campuchia là một hành động điên rồ về quân sự và là cuộc tự sát về chính trị. Ông ta trích lại câu nói của Võ Nguyên Giáp: “Chiến cuộc càng mở rộng, sự nghiệp cách mạng càng có lợi”. Bên nào có hỏa lực mạnh hơn thì tập trung có lợi hơn là phân tán trên một chiến trường mở rộng, ngược lại với điều Mỹ đã lựa chọn.
Đáng lẽ có thể gây thiệt hại cho lực lượng của Võ Nguyên Giáp thì do tiến hành chậm chạp các kế hoạch tiến công, hành động của Mỹ đã không đem lại mấy kết quả. Nixon hy vọng cuộc tấn công vào Campuchia nếu thắng lợi sẽ làm cộng sản sợ hãi phải nhận thương lượng ở Paris để đi đến hòa bình thật sự. Henry Cabot Lodge đã được Kissinger thay thế. Và từ ngày 21/2/1970, Kissinger đã tiến hành một loạt các cuộc gặp riêng với Lê Đức Thọ, cố vấn của Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Phía Việt Nam hết tuần này sang tuần khác không ngừng đòi Mỹ chấm dứt ném bom đối với miền Bắc như là điều kiện cho mọi tiến bộ có thực chất. Việc Mỹ và ngụy quân Sài Gòn đột nhập vào Campuchia không làm cho lập trường Bắc Việt Nam bớt cứng rắn.
Việc xâm lược Campuchia gây nên những kết quả không mong đợi ở bên trong nước Mỹ, thúc đẩy phong trào chống chiến tranh tiến lên một bước mới. Các cuộc biểu tình của sinh viên nổ ra khắp nơi trong nước. Ở Kent State lực lượng vệ binh bang Ohio bắn vào đoàn biểu tình sinh viên đang tức giận ném vào họ bất cứ cái gì có trong tay. Những sự kiện tương tự diễn ra ở Jackson State bang Mississippi. Những cuộc biểu tình khổng lồ tràn ngập trên đường phố và nơi công cộng ở Washington. Nhiều thượng nghị sĩ lên tiếng đòi Quốc hội bãi bỏ nghị quyết về Vịnh Bắc Bộ hoặc đòi toàn bộ quân Mỹ rút ra khỏi miền Nam Việt Nam vào cuối năm 1971.
Bản thân Võ Nguyên Giáp cũng cảm thấy đau xót trước những tổn thất trong lực lượng của ông. Tháng 6, trước những ý kiến phê phán đầu tiên của một nhân vật cấp cao về việc đột nhập vào Campuchia, ông trả lời chiến tranh không còn chỉ ở hai miền Việt Nam mà đã lan rộng trên toàn bán đảo Đông Dương. Ông nói: “Quân đội ta chiến đấu vai kề vai với nhân dân hai nước Lào và Campuchia để giành độc lập và tự do thật sự đưa sự nghiệp giải phóng nhân dân các nước Đông Dương chống đế quốc Mỹ và tay sai đến thắng lợi hoàn toàn”. Rồi với một tính đa cảm đáng ngạc nhiên, ông nhắc đến vai trò của Hồ Chí Minh: “Hình ảnh sáng ngời của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã quá cố vẫn còn chiếu sáng cho phong trào cách mạng đang dâng lên trên khắp bán đảo Đông Dương từ cánh đồng Chum đến phế tích Angkor”.
Tháng 9 năm đó, Võ Nguyên Giáp tham dự hội nghị quân sự tổng kết bốn năm chiến đấu và rút ra bài học. Nhân dịp này ông đã ca ngợi cuộc kháng chiến của tỉnh Quảng Bình quê hương ông. Ông nói: “Quân dân cả nước đã quán triệt sâu sắc đường lối quân sự đúng đắn của Đảng. Điều đó cho phép nhân dân và lực lượng vũ trang đã bắn rơi 572 máy bay địch (hình như không có B-52 nào), bắn cháy và bắn đắm 45 tàu chiến trên mặt biển và anh dũng chống lại chiến tranh phá hoại của bọn xâm lược và tay sai”. Ông nói tiếp đến chiến công của quân dân tự vệ Quảng Bình chỉ bằng súng trường đã hạ 53 máy bay và bắt được nhiều “giặc lái”. Đồng thời nông dân Quảng Bình cần cù lao động đã tăng sản lượng nông nghiệp và lập thêm nhiều nhà máy mới. Ông nói với cử tọa: “Chúng ta phải học tập gương chiến đấu và sản xuất của nhân dân Quảng Bình”.
Võ Nguyên Giáp nói hình như không bao giờ mệt. Đó là một hiện tượng thường thấy ở các vĩ nhân hoặc gần như vĩ nhân trên thế giới. Tháng 10/1970, ông phát biểu về lý luận quân sự trong một hội nghị cán bộ quân sự các binh chủng. Với danh nghĩa là Bộ trưởng Quốc phòng, Bí thư Quân ủy Trung ương và Tổng Tư lệnh quân đội, ông là nhà hùng biện nổi bật. Ông phát biểu với công chúng bằng những lời lẽ rất ấn tượng. “Chúng ta có nhiệm vụ phải xem xét nghiên cứu và phát triển khoa học quân sự Việt Nam coi đó như là một đóng góp tích cực vào việc đánh bại xâm lược Mỹ”. Bản trình bày của ông có phần mở đầu và năm phần về nội dung nhưng cũng chưa hết. Ông đọc toàn văn một cách thận trọng, tỉ mỉ để người nghe không bỏ sót một chi tiết nào trong tư duy của ông về vấn đề được trình bày.
Trước hết, ông nêu ra cái mới mẻ cơ bản của khoa học quân sự Việt Nam khác hẳn khoa học quân sự các nước khác ở chỗ nó phản ánh một cách khoa học quy luật của cách mạng vô sản. Đó là một nền khoa học tiến bộ phục vụ mục tiêu chính nghĩa của giai cấp công nhân, đã phát triển tinh thần chủ động tiến công của nhân dân lên một trình độ cao. Võ Nguyên Giáp kêu gọi cán bộ toàn quân phải nghiên cứu nhiều hơn nữa để giải quyết các vấn đề chuyên biệt như hậu cần, công tác cán bộ, quản lý bộ đội, huấn luyện, đào tạo và nhiều nhiệm vụ quân sự khác. Cuối cùng mỗi người phải hiểu rõ những nhiệm vụ quân sự đó là khoa học, kết hợp với sự hiểu biết của quần chúng vừa tập trung vào các vấn đề trước mắt, vừa suy nghĩ về các vấn đề lâu dài, tiếp thu thành tựu quân sự của các nước anh em. Võ Nguyên Giáp kết luận: “Khoa học quân sự Việt Nam là một khoa học không thể đánh bại”.
Tháng 12 năm đó, kỷ niệm 26 năm thành lập quân đội cũng là ngày kỷ niệm 24 năm Toàn quốc kháng chiến. Hội trường Ba Đình là nơi cử hành lễ kỷ niệm được bật đèn sáng trưng. Khẩu hiệu màu sắc tươi rói mang dòng chữ có nội dung cổ vũ:
Chủ tịch Hồ Chí Minh sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.
Hoàn thành nhiệm vụ, vượt mọi khó khăn để chiến thắng kẻ thù.
Quyết tâm thực hiện di chúc thiêng liêng của Bác Hồ.
Tất cả vì miền Nam ruột thịt.
Sẵn sàng chiến đấu hy sinh cho chủ nghĩa xã hội.
Kiên quyết chiến đấu và tăng cường tinh thần sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt địch, đập tan âm mưu xâm lược miền Bắc!
Đến dự buổi lễ có đông đủ các tầng lớp nhân dân. Các pháo thủ phòng không đến dự lễ mang theo lá cờ có dòng chữ: “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Nông dân đến từ các hợp tác xã ngoại thành Hà Nội. Công nhân ngắm nghía bộ quân phục của không quân, lính rađa, công binh, vận tải, pháo binh, bộ binh và hải quân. Lẫn trong đám đông là đại biểu của các đảng phái chính trị, các dân tộc, các tôn giáo, các ủy ban liên lạc, những người miền Nam đang ở thăm Hà Nội, các nghệ sĩ và nhà văn. Rất nhiều nhà ngoại giao của thế giới thứ ba và các tùy viên quân sự của các nước anh em cũng có mặt, nói chuyện với các phóng viên, nhà báo và các đài phát thanh truyền hình nước ngoài, trong nước.
Đúng 21 giờ 30 phút, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng và các vị lãnh tụ khác bước lên lễ đài. Sau lưng họ là bức chân dung lớn của Hồ Chí Minh và một lá cờ đỏ sao vàng năm cánh. Theo hiệu lệnh, các cháu thiếu nhi quàng khăn đỏ, nhanh nhẹn bước lên bục tặng những bó hoa tươi thắm cho các vị lãnh đạo Đảng và nhà nước.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng khai mạc buổi lễ bằng một bài diễn văn dài. Sau đó, Võ Nguyên Giáp dáng điệu nghiêm trang đi những bước dài về phía micro. “Nhân dân ta”, ông nói, “quyết tâm đuổi đế quốc Mỹ, kẻ thù chung của chúng ta ra khỏi bán đảo Đông Dương”. Cuộc chiến tranh này đã trở thành một cuộc chiến tranh để giải phóng không những miền Nam mà toàn Đông Dương khỏi sự xâm lược của đế quốc Mỹ. Ông nói tóm tắt quá trình trưởng thành của quân đội trong 26 năm qua và nêu lên nhiệm vụ trước mắt. “Quân đội ta chân đất đã đánh bại quân đội nhà nghề của thực dân Pháp… nhờ sức mạnh tinh thần không chút nao núng và khôn khéo trong chiến đấu”. Ông lên án hành động phiêu lưu của Nixon ở Campuchia, việc Việt Nam hóa chiến tranh và sự ngoan cố của Mỹ tiếp tục chiến tranh. Ông thấy đó chỉ là hành động điên cuồng của một quốc gia đang trên bờ của sự thất bại. Ông hứa hẹn miền Nam sẽ được giải phóng. “Dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi”.
Một tháng sau đó, Tết âm lịch lặng lẽ qua đi mà không có một hoạt động gì nổi bật. Võ Nguyên Giáp gửi lời chúc mừng năm mới tới quân chủng không quân, trồng cây lưu niệm tại Văn Miếu. Cũng trong tháng 1, ông nói chuyện với Masana Wada, phóng viên tờ báo Akahata của Tokyo. Việt Nam hóa chiến tranh vẫn là vấn đề làm ông quan tâm và lo ngại chính sách đó thành công khiến ông lên án nghiêm khắc: đó là sự thay đổi màu da trên xác chết nhằm tiết kiệm sinh mạng của chính lính Mỹ. Hoa Kỳ đang trắng trợn sử dụng người Nam Việt Nam đổi lấy vũ khí và đôla. Ông nói thêm: sự kiện quan trọng nhất trong năm qua là việc Mỹ xâm lược Campuchia và ngoan cố thi hành chính sách Việt Nam hóa chiến tranh. Thái độ đó của Mỹ chẳng khác nào con dã thú khát máu. “Hoa Kỳ sẽ không thành công trong âm mưu cứu vãn chế độ bù nhìn”. Ông kết luận: “Người Việt Nam chúng tôi sẽ giành thắng lợi cuối cùng”.
Trong lúc đang diễn ra cuộc nói chuyện của Võ Nguyên Giáp thì tướng Abrams và Bộ Tham mưu của ông hoàn chỉnh kế hoạch để một lần nữa thử thách công cuộc Việt Nam hóa chiến tranh. Qua cuộc đột kích vào Campuchia vừa rồi, sức chiến đấu của ngụy quân Sài Gòn đã gây ấn tượng tốt đẹp cho tướng Abrams, khiến ông đi đến quyết định rút cố vấn Mỹ ở một số đơn vị quân đội Sài Gòn vì thấy không cần thiết nữa. Đã đến lúc ông tiến hành thí nghiệm thứ hai. Quân số của tướng Abrams đã rút xuống còn 335.000 người, trong số đó có thể chỉ có 40.000 là lính chiến đấu thật sự. Con số này còn tiếp tục rút xuống thêm nữa. Nixon đang thực hiện lời hứa đưa lính Mỹ trở về nhà. Tuy nhiên vẫn còn một mối đe dọa đòi hỏi phải loại trừ nếu Cộng hòa miền Nam thật sự vẫn giữ hy vọng mong manh là mãi mãi tách khỏi Bắc Việt. Đó là con đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng. Đó không còn là một hệ thống vận chuyển thực sự có từ trước mà Hà Nội chỉ là khai thác sử dụng. Đó là một mạng đường mòn trước đây người dân và khách bộ hành vẫn thường sử dụng từ nhiều thế kỷ nay để đi lại dọc dãy Trường Sơn. Nay những người cộng sản đã mở rộng mạng đường mòn đó sang cả lãnh thổ của nước Lào trung lập thành một tuyến hậu cần có tầm quan trọng bậc nhất để đưa người thành từng nhóm nhỏ cùng với lương thực, vũ khí và phương tiện chiến tranh cung cấp cho miền Nam.
Con đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng có 100.000 dân công, kể cả người Lào, tham gia và bộ đội bảo dưỡng. Nó không còn là con đường nhỏ thông thường đi qua rừng rậm. Đã có gần hai vạn cây số mặt đường được ngụy trang kín đáo, có nhiều đoạn mở rộng cho hai làn xe nối với Tchepone ở Nam Lào, gần biên giới của Việt Nam Cộng hòa, dọc đường còn có những khu vực nghỉ ngơi và hệ thống hầm hào tránh bom, còn đi kèm với cả một hệ thống đường ống, đường kính 12 cm để tiếp dầu và chất đốt cho xe cộ đi lại trên đường. Các nhà phân tích của CIA ước tính rằng từ năm 1966 đến 1971, có 630.000 lính, 100.000 tấn lương thực, 400.000 súng ống các loại và 50.000 tấn đạn dược đã chuyển vào Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh. Đã đến lúc không thể để tình trạng này tiếp tục tồn tại.
Abrams muốn sử dụng lính Mỹ để phá hoại con đường mòn, nhưng điều luật sửa đổi Cooper Church được Quốc hội thông qua sau chuyến đột nhập vào Campuchia năm ngoái đã ngăn cản sử dụng lính Mỹ ở bên ngoài biên giới Nam Việt Nam. Abrams liều sử dụng lực lượng quân đội Sài Gòn và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thông qua kế hoạch hành quân, huy động 21.000 quân tham gia vào mục đích này. Đó là cuộc hành quân Lam Sơn 719, lấy tên của quê hương cuộc khởi nghĩa Lê Lợi chống nhà Minh thế kỷ XV. Các máy bay ném bom và các trực thăng của quân đội Mỹ đã yểm trợ tối đa cho cuộc hành quân này. Cuộc tiến công bắt đầu ngày 8/2/1971. Quân lực Việt Nam Cộng hòa bắt đầu tiến quân về phía tây theo đường số 9, một con đường mòn già cỗi, lởm chởm đầy hố, song song với con sông Xê Pôn đi từ Khe Sanh đến thị trấn Tchepone cách nhau khoảng 40 cây số. Ở phía nam Tchepone, bên trái là những vách núi thẳng đứng, bên dưới là rừng rậm, tán lá tỏa tầng tầng lớp lớp.
Thoạt đầu lính Cộng hòa chui rừng mà đi chỉ gặp sự kháng cự lẻ tẻ của quân địch. Thời tiết bỗng nhiên thay đổi. Cả vùng bị bao phủ trong những trận mưa đổ xuống như thác. Lính bộ binh lò dò từng bước trên một khu lầy lội cực kỳ vất vả. Rồi bất thình lình quân địch đổ ra đánh chặn. Những trận giao chiến ác liệt tơi bời. Ngày 11/2, ngụy quân Sài Gòn chỉ còn cách dừng lại bỏ dở cuộc tiến quân, lẩn trốn tán loạn không tiến được bước nào. Bọn chỉ huy không biết cuộc hành quân rồi sẽ ra sao nữa. Cuối cùng ngày 6/3, ngụy quân Sài Gòn cũng tiến được đến thị trấn Tchepone hoang vắng. Võ Nguyên Giáp quyết tâm bảo vệ bằng được con đường chiến lược huyết mạch này. Ông tung vào trận một lực lượng đông đảo để đập tan cuộc hành quân Lam Sơn 719. Đó là các đơn vị thuộc các Sư đoàn chủ lực 2, 204, 308, 320 và 324, không kể 19 tiểu đoàn của các lực lượng phòng không, một trung đoàn pháo binh, một trung đoàn xe tăng. Các lực lượng của Võ Nguyên Giáp gây ra cho ngụy quân Sài Gòn những tổn thất nặng nề không thể tưởng tượng được. Các cuộc ném bom và các trực thăng cũng không cứu được chúng khỏi tai họa. Chỉ trong ba ngày sau khi tiến vào Tchepone, Thiệu đã hạ lệnh bỏ thị xã và rút khỏi Lào. Dù được máy bay Mỹ yểm hộ hết mình, binh sĩ Cộng hòa chết và bị thương 10.000 tên và phải mất hai tuần chúng mới rút hết về điểm xuất phát là Khe Sanh sau khi bị đánh tơi tả trên đường về còn dữ dội hơn lúc tiến quân. Lính Mỹ theo dõi chương trình truyền hình buổi tối ngán ngẩm nhìn cảnh ngụy quân hoảng hốt bám cả vào càng máy bay trực thăng để chạy trốn trước làn đạn của cộng sản. Thế là cả cuộc tiến công lẫn Việt Nam hóa chiến tranh đều không thành công!
Ngày 20/3, Võ Nguyên Giáp phát biểu tại Hà Nội trong một buổi chiêu đãi của đại sứ Mông Cổ. Hình ảnh của cuộc hành quân Lam Sơn 719 hãy còn tươi rói trong tâm trí ông. Ông lên án Chính quyền Nixon đã tập hợp một lực lượng “nửa Mỹ, nửa bù nhìn”, đã trâng tráo hành động quân sự phiêu lưu quy mô lớn xâm phạm lãnh thổ Lào. “Đó là các lực lượng phối hợp giữa lực lượng Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, các đơn vị chủ lực ở miền Bắc và lực lượng Pathet Lào cùng nhau sát cánh chiến đấu trên đường 9 từ Khe Sanh cho tới Nam Lào bất chấp sức mạnh yểm trợ của không quân Mỹ và đã giáng cho quân đội Việt Nam Cộng hòa những đòn chí mạng”.
Frank Margiotta, phi đội trưởng không lực Hoa Kỳ, làm việc tại Tổng hành dinh quân Mỹ ở Sài Gòn trong lúc đang diễn ra cuộc hành quân Lam Sơn 719, báo cáo rằng số trực thăng Mỹ bị bắn rơi nhiều đến nỗi không dám cho bộ chỉ huy không lực Hoa Kỳ biết. Những tin đồn lan truyền rằng những người của không lực Hoa Kỳ sợ liên lụy về số trực thăng bị bắn rơi quá nhiều sẽ tác động đến việc thực thi nhiệm vụ của họ cũng như việc sử dụng họ sau này.
Mặc dù đánh thắng quân đội Sài Gòn trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, nhưng Võ Nguyên Giáp vẫn phải giải quyết một loạt vấn đề đặt ra ít nhất từ một năm nay. Từ sau cuộc đảo chính của Lon Nol lật đổ Sihanouk ở Campuchia, Võ Nguyên Giáp đã mất khả năng sử dụng cảng Sihanouk để nhận tiếp tế từ miền Bắc vào qua đường biển rồi theo đường mòn Sihanouk về căn cứ đất thánh của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ở vùng Mỏ Vẹt và Lưỡi Câu. Hơn nữa, Lon Nol đứng đầu chính phủ mới của Campuchia còn cho quân đội tiến công lực lượng của Võ Nguyên Giáp và quân của Khmer Đỏ. Những cuộc xâm nhập của ngụy quân và quân Mỹ vào Campuchia tháng 5 và 6/1970 không những làm cho Võ Nguyên Giáp mất an toàn khu mà còn phải mở rộng phạm vi chiến trường trên hàng nghìn cây số.
Cuộc hành quân Lam Sơn 719 lại một lần nữa là thử thách đối với lực lượng Bắc Việt, lần đầu tiên phải chiến đấu bảo vệ một vùng đất quan trọng sống còn đối với con đường chi viện chiến lược, nhưng lại ở cách Hà Nội gần 650 cây số so với các trận giao chiến trước đây ở miền Nam. Muốn loại bỏ thách thức của cuộc hành quân Lam Sơn 719, ông phải giao nhiệm vụ cho các đơn vị chủ lực để bù lại những tổn thất ở Campuchia và ở Nam Việt Nam. Điều này làm cho lực lượng dự trữ chiến lược ở miền Bắc mỏng đi và yếu hơn là ông mong đợi, vì cho tới năm 1971 ông tiếp tục đề phòng cuộc tiến công miền Bắc của Mỹ. Trong lúc ảnh hưởng của Lam Sơn 719 nhạt dần, Võ Nguyên Giáp lại lao đầu vào việc nghiên cứu kế hoạch chiến đấu mới, việc tuyển quân, huấn luyện tân binh, thành lập những đơn vị mới và lập kho dự trữ đồ tiếp tế mới. Tất cả những việc đó làm ông mất nhiều thời gian để tính toán, suy nghĩ và là một quá trình lâu dài, khó khăn, tốn kém.
Dù vấp phải những khó khăn mới, Bộ Chính trị vẫn cảm thấy phấn khởi trước sự thất bại của ngụy quân trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Vào đầu mùa hè chỉ ít lâu sau thắng lợi ở Nam Lào, các nhà lãnh đạo cao cấp trong Chính phủ miền Bắc năm sau lại phát động cuộc tấn công quy mô trên chiến trường miền Nam trong khi quân Mỹ vẫn đang rút đi, chứ không chờ đến lúc Mỹ rút quân toàn bộ. Quân đội Sài Gòn không còn là sự đe dọa và một cuộc tiến công sâu vào miền Nam sẽ trực tiếp hạ thấp vai trò của ngụy quân Sài Gòn cũng như làm nhục quân Mỹ.
Võ Nguyên Giáp rất băn khoăn trước chủ trương này. Ông cho rằng chủ trương cuộc tiến công quy mô lớn trên chiến trường miền Nam là không hợp thời căn cứ vào so sánh lực lượng hiện nay. Cũng giống như tiến công Tết Mậu Thân 1968, Võ Nguyên Giáp nghĩ rằng bây giờ chưa đến lúc tiến hành một cuộc tiến công quy mô tương tự. Hãy còn quá sớm. Với việc Việt Nam hóa chiến tranh, quân đội Sài Gòn đã được tăng cường hỏa lực và nâng cao một phần sức chiến đấu. Lục quân Mỹ có thể giảm đi về số quân nhưng không phải vì thế mà không lực Mỹ sẽ không phát huy được uy lực của chúng trong việc yểm trợ ngụy quân Sài Gòn, gây những khó khăn đáng kể cho lực lượng của Võ Nguyên Giáp. Tiến hành đánh lớn ở miền Nam sẽ làm mỏng lực lượng phòng thủ ở miền Bắc vì phải san sẻ lực lượng chủ lực và các nguồn lực cho mặt trận ở miền Nam. Nhưng lập trường của Võ Nguyên Giáp không được ủng hộ trong Bộ Chính trị: ông được lệnh phải chuẩn bị mở một trận đánh lớn ở miền Nam và phải giành thắng lợi để Hà Nội chỉ còn áp đặt các điều kiện để chấm dứt chiến tranh. Là một quân nhân, Võ Nguyên Giáp phải xóa bỏ mọi nghi ngờ băn khoăn, không dám trái lệnh và bắt đầu lao vào công việc khởi thảo kế hoạch. Ông đặt tên cho chiến dịch này là Chiến dịch Nguyễn Huệ, tên một vị anh hùng dân tộc của Việt Nam năm 1789 đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh ở phương Bắc.
Tại Paris, Lê Đức Thọ gần như đẩy các nhà thương lượng Mỹ vào tâm trạng cuồng loạn. Cho đến đầu năm 1972, các bên mới đạt được nhất trí với nhau về kích cỡ và hình dáng cái bàn để các bên ngồi vào thương lượng! Đó có thể là một cái bàn trung tâm hình tròn đường kính 8 m, hai bên đối diện nhau cách bàn chính 0,5 m, có lắp một bàn nhỏ hơn hình chữ nhật dài 1,2 m, rộng 0,9 m. Với nhịp độ này, các cuộc thương lượng có thể kéo dài đến thiên niên kỷ sau!
Võ Nguyên Giáp trình bày phương án tác chiến mới tại cuộc họp Bộ Chính trị. Ông dự kiến sẽ tiến công ba mũi: quân chính quy Bắc Việt sẽ vượt qua khu phi quân sự, với bộ binh, pháo binh và xe tăng trợ chiến phối hợp, để tấn công Quảng Trị. Nếu thành công, Võ Nguyên Giáp sẽ chiếm cứ hai tỉnh cực bắc của Nam Việt Nam và sẽ uy hiếp Đà Nẵng, thành phố quan trọng thứ hai của Nam Việt Nam và đi sâu hơn về phía Nam.
Mũi tiến công thứ hai sẽ đánh thẳng vào chính diện có bộ binh chủ lực và pháo binh, xe tăng phối hợp, tiến công vào Kon Tum và Pleiku ở cao nguyên miền Trung, đồng thời sẽ mở một mũi tiến công ở hướng phụ là Bình Định. Chiếm được các mục tiêu nói trên là cắt lãnh thổ miền Nam Việt Nam ra làm đôi bằng đường 19, con đường quan trọng đi từ ven biển theo phía đông tiến về cao nguyên miền Trung.
Trên mặt trận miền Nam, Võ Nguyên Giáp tính sử dụng ba sư đoàn Việt Cộng, nhằm vào Lộc Ninh và An Lộc, thủ phủ tỉnh Bình Long. Mặc dù gọi là Việt Cộng nhưng cũng là quân miền Bắc xâm nhập vào miền Nam từ lâu. Sau cuộc tiến công Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng chưa đủ thời gian hồi sức để có thể tác chiến theo quy mô sư đoàn. Chiếm được An Lộc sẽ tạo thế uy hiếp trực tiếp đối với Sài Gòn cho tới nay vẫn giữ được an toàn. Chiếm An Lộc còn làm suy yếu sự ổn định của chính quyền miền Nam. Trong lúc đó, một sư đoàn khác triển khai lực lượng ở đồng bằng sông Mê Kông để nắm thóc gạo, chiếm đóng một vùng đất đai bổ sung và kìm chân ngụy quân để tăng cường cho mặt trận khác.
Từ lâu, Lê Duẩn và cố đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chỉ huy trưởng lực lượng ở miền Nam yêu cầu phương án tiến công như vậy. Bây giờ Võ Nguyên Giáp sẵn sàng nghe theo họ. Việc chuẩn bị giai đoạn ba cho các cuộc chiến tranh nhân dân sắp hoàn thành. Mặc dù không đồng ý với quan điểm đó, nhưng ông cho rằng bổn phận người lính là phải phục tùng, chuẩn bị cuộc chiến đấu và đặt vào đó mọi thẩm quyền của mình. Ông dựa vào sức mạnh hợp đồng giữa bộ binh, xe bọc thép và pháo binh, được trang bị hiện đại. Nhược điểm duy nhất là thiếu yểm trợ của máy bay đối với lực lượng chiến đấu trên mặt đất. Nếu cuộc tiến công đều thành công trên cả ba hướng, chính quyền và quân đội Nam Việt Nam sẽ sụp đổ. Thậm chí chỉ một mũi thành công thì hậu quả đối với chính quyền miền Nam sẽ nghiêm trọng và làm nản lòng dân chúng, lung lay bộ máy chính quyền. Võ Nguyên Giáp ấn định ngày nổ súng bắt đầu chiến dịch là trưa ngày 30/3/1972. Theo lịch Công giáo, đó là ngày thứ Sáu trước Lễ Phục sinh.
Trước khi chiến dịch mở màn, Hà Nội đẩy mạnh vận động tuyển quân với quy mô chưa từng có, khắc phục thiếu hụt quân số. Lần đầu tiên các con em đảng viên, sinh viên đại học, ngay cả những người đã được chọn đi du học ở các nước Đông Âu, các nhà giáo, các thợ bậc cao và các thanh niên con em liệt sĩ hay thương binh đến bây giờ đều xin nhập ngũ, sẵn sàng chiến đấu ở các chiến trường xa.
Đến ngày D, trọng pháo đặt ở bờ bắc giới tuyến đều được bố trí tạo thành một lưới lửa khổng lồ đánh vào các căn cứ và các đơn vị lính Cộng hòa dọc theo bờ nam giới tuyến. Khi tiếng nổ long trời lở đất của trái pháo bắt đầu, các đơn vị bộ binh của Võ Nguyên Giáp nhất tề tiến quân, 30.000 lính và 200 xe tăng Liên Xô. Ngày 1/4, binh lính Cộng hòa rút lui có trật tự nhưng hôm sau do ảnh hưởng của dân chúng hoảng hốt di tản vượt qua phòng tuyến chạy về phía nam, tinh thần binh sĩ vốn đã không cao nên suy sụp nhanh chóng. Ngày 1/5, quân đội của Võ Nguyên Giáp chiếm thị xã Quảng Trị và phần lớn tỉnh Quảng Trị. Chỉ đến 16/9, các đơn vị lính Cộng hòa được tăng cường mới lấy lại thị xã, dưới cái ô bảo vệ của không lực Hoa Kỳ.
Ngày 27/4, trong lúc chiến dịch tiến công ở miền Nam đang rầm rộ, Kamil Tangri, phóng viên báo Cộng hòa liên bang Đức Vorwaerts gặp tướng Võ Nguyên Giáp ở Hà Nội. Tangri là con lai Việt Nam, con của một sĩ quan tham mưu ở miền Bắc. Tangri mới từ nơi thường trú ở Singapore đến Hà Nội. Là con người bền bỉ hay bám riết, Tangri đặt ra nhiều câu hỏi tế nhị trực diện, thường xuyên kéo Võ Nguyên Giáp trở về vấn đề đang đề cập mỗi khi ông đi quá xa. Tangri hỏi các cuộc tiến công đang diễn ra ở miền Nam có quyết định tương lai của Nam Việt Nam hay không?
“Trận đánh này”, Võ Nguyên Giáp tuyên bố, “đã bắt đầu từ 25 năm trước đây. Một trận đánh dù quan trọng như thế nào – dù đó là Issos, Hastings, hay Waterlo – bao giờ cũng chỉ là một sự kiện của một tình thế đang phát triển. Nhưng số phận của toàn thể các dân tộc tuân theo những quy luật mà sinh ra các trào lưu và phản trào lưu cho đến khi nào các trào lưu đó va chạm nhau và kéo theo các cuộc xung đột.” Tangri lưu ý Giáp rằng ông chỉ đặt câu hỏi về cuộc tiến công đang diễn ra ở miền Nam chứ không hỏi về lịch sử quân sự nói chung. Tangri lại trở lại với ý định của ông: “Ngài nói rằng chủ nghĩa cộng sản đem lại tự do cho các dân tộc. Vậy ngài giải thích như thế nào về một tình trạng rõ ràng là thiếu tự do khiến cho người được trao giải Nobel như Solzhenitsyn thấy rằng không thể nhận được giải thưởng đó hay khi người Do Thái bị cấm đoán không được rời Liên Xô, khi người ta từ chối không cho người Đức đi thăm đồng bào của họ ở bên kia bức tường (ở Berlin)?”
Võ Nguyên Giáp lẩn tránh trả lời câu hỏi: “Tôi không có thẩm quyền để đánh giá đầy đủ các vấn đề nội bộ của Liên Xô, của Cộng hòa Dân chủ Đức hay bất kỳ nước nào khác. Có nhiều sắc thái khác nhau giữa các chủ nghĩa xã hội, từ chủ nghĩa Lênin đến chủ nghĩa Mao, qua chủ nghĩa Tito, chủ nghĩa Castro, những kinh nghiệm ở Praha, hay Chilê, còn chúng tôi lại đi theo con đường của chúng tôi. Chủ nghĩa Mác còn tương đối trẻ… phải cần nhiều thế hệ để hoàn thiện nó”. Rồi với giọng gay gắt hơn, ông nói tiếp: “Những quyền tự do mà ông nói tới chung quy chẳng có ý nghĩa gì với đại đa số nhân loại. Người ta quan tâm đến cuộc sống xa xỉ của chính họ hơn là đến tự do của đồng loại, là được ăn ba bữa một ngày và sống không có bệnh truyền nhiễm. Thử hỏi nhân dân Ấn Độ sống khốn khổ có lợi gì khi được tự do đi du lịch bất cứ đâu? Người da đỏ ở châu Mỹ La Tinh có lợi gì khi được tự do mua các ấn phẩm của phát xít?”
Đó chính là điều Giáp muốn tranh luận. Tangri không bỏ lỡ cơ hội rất sung sướng được thỏa mãn ý muốn tranh luận của ông:
-Ngài có nghĩ rằng người dân Sài Gòn đều không được tự do hoặc cảm thấy không được tự do bằng các bạn của họ ở Hà Nội?
Võ Nguyên Giáp trở nên sắc sảo hơn:
- Dân Sài Gòn cũng như Tổng thống Thiệu khẳng định có quyền tự do đi xe gắn máy thay vì dùng xe đạp.
- Ngài lẩn tránh câu hỏi của tôi rồi, thưa ngài. Cuộc tiến công của ngài hiện nay nhằm mục tiêu gì?
Võ Nguyên Giáp trả lời với nụ cười trên môi:
- Làm cho nhân dân tiến lên một bước gần hơn tới tự do thật sự.
Tangri lại cố gắng thêm một lần nữa:
- Cuộc tiến công của ngài có định cắt miền Nam Việt Nam ra làm đôi không? Ngài có định chiếm Huế để uy hiếp Sài Gòn?
Võ Nguyên Giáp trả lời:
- Ông hãy hỏi Mặt trận Dân tộc giải phóng. Chúng tôi chỉ ủng hộ Mặt trận với vũ khí và lực lượng của chúng tôi.
Tangri không tin vào tai mình nữa:
- Thực ra các ngài ủng hộ ồ ạt đến mức theo con mắt của toàn thế giới, người ta cho rằng đó là cuộc chiến tranh của chính các ngài. Sau khi lật đổ chế độ Sài Gòn, các ngài sẽ sang Lào và Campuchia chứ?
Võ Nguyên Giáp trả lời với vẻ trịnh trọng:
- Ở đó cũng vậy, chúng tôi chỉ ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Tangri hỏi thêm một câu nữa:
- Chiến tranh sẽ kéo dài bao lâu?
Rất nhanh, tướng Giáp trả lời nhẹ nhàng và đầy hy vọng:
- Tôi nghĩ rằng cuộc chiến sẽ không kéo dài như nó đã kéo dài từ trước tới nay.
Chiến dịch ở mặt trận chính bắt đầu từ đầu tháng 4. Tại đây tập trung 35.000 quân có mặt ở Lào vượt qua biên giới định đánh thẳng lên Kon Tum. Báo Time đưa tin: “Như mọi lần họ xông vào các trận đánh được chuẩn bị tỉ mỉ, đã được quy định từ trước. Chỉ khi nào mọi thứ đã sẵn sàng, từ xăng dầu, xe tăng đến đạn dược cho bộ binh, Bắc Việt Nam mới triển khai. Phần lớn các trường hợp họ đều thành công”. Dọc bờ biển trong tỉnh Bình Định, lính của Võ Nguyên Giáp cắt Quốc lộ 1. Từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 5, Quân đội giải phóng nhân dân tiến về Kon Tum đối mặt với những binh sĩ Cộng hòa đã mất hết nhiệt tình chiến đấu. Ngày 14/5 họ tiến công Kon Tum và bị pháo binh ngụy quyền kết hợp với các cuộc ném bom chiến thuật của trực thăng Mỹ đẩy lùi.
Từ 15 đến 25/5, các đơn vị miền Bắc vẫn theo dõi sát Kon Tum, cố gắng cô lập các điểm yếu trong hệ thống phòng ngự của đối phương. Đêm 25/5, họ chọc thủng ngoại vi và đột nhập vào vùng ngoại ô thành phố. Tối 28/5 họ không thể duy trì nhịp độ tiến công lâu hơn nữa. Các cuộc oanh tạc của máy bay Mỹ gây cho họ tổn thất nặng nề và họ không thể trông chờ quân tiếp viện hoặc đồ tiếp tế. Ngày 30/5, họ bắt đầu rút. Trong tỉnh Bình Định, được máy bay Mỹ yểm hộ, quân lực Cộng hòa chiếm lại vùng đã mất trong tháng 4, tháng 5 và mở lại Quốc lộ 1. Các kế hoạch tác chiến được chuẩn bị tỉ mỉ từ trước ở miền Bắc, nhưng trên thực tế chiến trường miền Trung, các mục tiêu đặt ra đã không đạt được như mong muốn.
Cuộc tiến công ở mặt trận phía nam nổ ra sớm hơn từ ngày 2/4 với ba sư đoàn tăng cường tiến công Lộc Ninh và An Lộc trong tỉnh Bình Long. Lộc Ninh bị chiếm ngày 6/4. Các sư đoàn tiếp tục tiến vào uy hiếp An Lộc. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lo ngại, phải đưa các lực lượng dự bị để củng cố vị trí phòng thủ. Chủ lực Bắc Việt tiến công An Lộc vào ngày 13/4 với một hàng rào đạn pháo dày đặc, tiếp theo là xe tăng và bộ binh. Quân giải phóng cố gắng một lần nữa, ngày 14 và 15/4, họ tiếp tục bị đẩy lùi. Báo Time nêu khó khăn của Võ Nguyên Giáp lúc đó là không có kinh nghiệm về một cuộc chiến tranh quy ước, quy mô lớn và họ cũng không thực sự tiến hành vận động chiến… Bị ràng buộc bởi kế hoạch quy định trước và phụ thuộc vào tiếp tế đã được chuẩn bị từ trước, quân giải phóng đã bị trói chân tay vì một mô hình đánh đột kích.
Một đợt xung phong từ ngày 19 đến 23/4 đã không làm nản lòng đối phương. Một lần nữa lực lượng ngụy quân vẫn trụ được. Nhịp độ tiến công bị chậm lại vài ngày. Các đơn vị Bắc Việt củng cố lực lượng và được tiếp thêm đạn dược, nhưng hệ thống tiếp tế cổ xưa dùng sức người là chính đã trở thành bất cập. Họ lại tiến công ngày 11/5 và tiến lên dưới làn đạn yểm trợ của pháo binh. Máy bay B-52 và trực thăng chiến đấu ghìm chân tại chỗ lực lượng tiến công. Ngày 12/5 quân Bắc Việt cố gắng một lần nữa và hai hôm sau, ngày 14/5, họ tấn công thêm lần cuối cùng. Do gặp khó khăn về tăng viện và tiếp tế nên họ đã dừng cuộc tiến công, tản vào trong rừng rậm, rút về phía tây nơi họ đã tập kết khi ở miền Bắc vào.
Trong lúc chiến dịch Lễ Phục sinh năm 1972 đang diễn ra ác liệt, Richard Nixon giận dữ ném bom trở lại sau một thời gian hạn chế ném bom. Lần này máy bay Mỹ đánh nốt các mục tiêu chưa bao giờ được chọn lựa trong các đợt ném bom trước: san phẳng các kho chứa hàng, phá hủy các cơ sở công nghiệp và điện lực, cầu cống, đường xe lửa và đường bộ. Nixon ra lệnh thả mìn cảng Hải Phòng ngày 8/5, phong tỏa cảng Hải Phòng không cho tàu nước ngoài ra vào cảng và sau đó qua đài truyền hình, Nixon mới cho công chúng Mỹ biết việc ông ta đã làm: ném bom trở lại vùng từ vĩ tuyến 20 trở ra ở miền Bắc và thả mìn ở cảng Hải Phòng. Bị cắt mất nguồn tiếp tế từ các nước anh em qua đường biển, Võ Nguyên Giáp cho ngừng cuộc tiến công. Sau chiến dịch Nguyễn Huệ – một chiến dịch mà ngay từ đầu ông đã không tán thành, 100.000 quân sĩ của ông đã thiệt mạng trên cả ba hướng tiến công.
Miền Bắc đạt được một số kết quả: các sư đoàn của Võ Nguyên Giáp đã chiếm được một mảnh đất mà trước đây họ không bao giờ chiếm được (bắc Quảng Trị, Lộc Ninh,…). Bắc Việt đã có một số quân lớn chưa từng thấy tại miền Nam mà những điều khoản trong Hiệp định Paris năm 1973 không đòi hỏi họ phải rút về. Tinh thần của Việt Nam Cộng hòa bị lung lay nghiêm trọng. Việt Nam hóa chiến tranh xem ra không thể tiến triển nếu không có sự yểm trợ bằng không lực của Mỹ. Đối với miền Bắc, đó là một sự an ủi, song bây giờ cũng phải đối mặt với các khó khăn: trong một tương lai gần có thể thấy trước là không thể trù tính một cuộc tiến công mới nào. Việt Nam Cộng hòa tuy bị lung lay nhưng chưa đến lúc sụp đổ. Nước Mỹ không bị sỉ nhục, không những thế máy bay Mỹ còn đập tan kế hoạch được chuẩn bị chu đáo của Bắc Việt và cứu vãn thất bại của ngụy quân Sài Gòn.
Trước chiến dịch, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nghĩ rằng họ có thể tiếp tục cuộc chiến ở miền Nam đồng thời xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Thất bại của cuộc tiến công Lễ Phục sinh 1972 đã buộc họ phải tính toán lại các kế hoạch của mình. Việc phát triển kinh tế phải chờ đợi sau chiến thắng. Đảng, báo chí, đài phát thanh bắt đầu hô hào các nhà quản lý của các nhà máy quan tâm đến sản xuất ít hơn để dành cung cấp nhân lực cho quân đội. Giải pháp bây giờ là ở Paris. Lê Duẩn chỉ thị cho Lê Đức Thọ bắt đầu thương lượng nghiêm chỉnh với Kissinger.
Trước đây Giáp đã cảnh báo về triển vọng của chiến dịch Nguyễn Huệ là có thể thất bại. Ông đã có lý. Có lẽ ông có thể kiên quyết hơn bác bỏ kế hoạch tiến công xuân 1972 ngay từ lúc có người đề xuất. Có lẽ ông không nên dàn trải lực lượng ra trên cả ba hướng mà nên tập trung vào một mũi tiến công. Ông biết rằng hệ thống hậu cần của ông có khuyết điểm. Tuy nhiên, ông không thể nghĩ ra một hệ thống khác vì các phương tiện vận tải nặng không đủ. Chính vì hậu cần không đảm bảo cho nên quân đội của ông đã nhiều lần phải ngừng tiến công để chờ tiếp tế. Võ Nguyên Giáp có thể dự trữ đồ tiếp tế nhưng không vận chuyển kịp để đáp ứng nhu cầu của mặt trận. Vấn đề là ở chỗ đó.
Do có tính cơ động cao, chiến tranh cổ điển ngốn các vật liệu cung cấp với số lượng và tốc độ kinh khủng. Các sư đoàn chiến đấu của Mỹ sử dụng hàng tấn nguyên liệu cho một phút giao chiến. Còn Võ Nguyên Giáp thì không có phương tiện nào để thỏa mãn nhu cầu hạn chế nhất của các đơn vị tiến công. Vậy mà người ta ra lệnh cho ông phải chiến đấu trực diện và ông đã đánh giá quá cao khả năng mà ông có thể thực hiện. Tương tự như vậy, ông không biết phải làm như thế nào với xe tăng T-34 và T-54 do Liên Xô cung cấp. Cuộc chiến bằng xe tăng đã vượt quá sự thành thạo của ông. Ông đã dùng xe tăng như những pháo đài lưu động để đặt súng đại bác, phối hợp không có hiệu quả với các đơn vị bộ binh – trong lúc ông phải chọc thủng phòng tuyến đối phương bằng tấn công chớp nhoáng để tiêu diệt các công sự phòng ngự của họ.
Mùa hè năm 1972, có nguồn tin cho biết ông bị ốm phải đi chữa bệnh ở Liên Xô. Đúng là đến năm 1974, sức khỏe của ông trở thành vấn đề nghiêm trọng nên người ta ít thấy hình ảnh của ông xuất hiện. Người ta không còn thấy dấu hiệu về hoạt động của ông cho đến 23/ 12, kỷ niệm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông đến thăm Đơn vị Tên lửa số 77.
Cùng ngày, Đoàn Đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris chính thức phủ nhận tin Võ Nguyên Giáp đã từ trần đang lan truyền trong các giới tình báo miền Nam ở Sài Gòn. Người ta đồn rằng ông bị trúng bom nổ chậm trong khi đi kiểm tra thiệt hại của kho vũ khí Trần Hưng Đạo ở Hải Phòng sau một trận ném bom của Mỹ. Trong bài cáo phó viết vội vàng và quá sớm của hãng thông tấn Pháp France Presse (AFP), tác giả cho biết Võ Nguyên Giáp đã bị chỉ trích là đem chính trị xen vào binh nghiệp đang sáng chói. Đây là một nhận xét lố bịch. Có lẽ đúng hơn nếu AFP nói rằng ông là nhà chính trị biết tổ chức và chỉ huy quân đội. Thông tin này khiến dư luận giật mình trong khi chính đài Hà Nội phổ biến một lời kêu gọi của Võ Nguyên Giáp phải can đảm đối phó với cuộc ném bom ồ ạt Linebacker II diễn ra từ 18 đến 29/12/1972 khi không lực Hoa Kỳ xuất kích 739 lần, trong đó 729 lần đánh trúng mục tiêu bên trên vĩ tuyến 20, thả 15.000 tấn bom, nhiều đến mức không một mục tiêu quân sự nào ở miền Bắc là không bị đánh. “Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố khác có thể bị tàn phá”, Võ Nguyên Giáp nhắc lại lời của Hồ Chí Minh, “nhưng nhân dân Việt Nam quyết không sợ”.
Người ta còn đồn Võ Nguyên Giáp đã từ trần trong nhiều dịp khác nữa. Giữa những năm 1960, người ta đã đưa tin sai lạc rằng ông đã mất trong một trận bom của máy bay Mỹ và trong những tháng qua có những báo cáo không được xác nhận là ông mất vì bệnh sốt rét. Buổi phát thanh tháng 12 năm đó chứng tỏ Võ Nguyên Giáp còn sống, bao giờ cũng mong muốn một thắng lợi hoàn toàn đối với kẻ địch. Thời điểm đó đang đến gần. Ngày 23/8/1972, Tiểu đoàn 3, Sư đoàn bộ binh 21 của Mỹ về nước. Đó là đơn vị chiến đấu cuối cùng của Mỹ rời khỏi Việt Nam.
Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt
- Tác giả : Ngô Văn Phú
- Danh mục : Lịch sử