Chiến thắng bằng mọi giá

Chương 5 “Mỗi người dân là một người lính”

<<Chương 4 “Không mềm, không ấm” Chương 6 “Niềm vui vô hạn” >>

Chương 5 “Mỗi người dân là một người lính”

Trong suốt mùa hè và mùa thu năm 1941, Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp đi đi về về giữa Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam trong lúc Võ Nguyên Giáp vẫn phụ trách huấn luyện cán bộ và mở đường Nam tiến phát triển phong trào cách mạng về xuôi. Trong quá trình hoạt động không tránh khỏi những cuộc đụng độ về quân sự với Pháp và Nhật, nhưng nguy hiểm đó không làm chùn bước Võ Nguyên Giáp và các cán bộ của ông.

Gần cuối năm 1941, sau khi trở về từ Trung Quốc, Võ Nguyên Giáp nhận thấy đội xung phong tuyên truyền đầu tiên của ông không quá mười người giờ đã xây dựng được mạng lưới cơ sở khắp tỉnh Cao Bằng, lực lượng Việt Minh được củng cố và xây dựng được nhiều cơ sở tin cậy ở khắp nơi làm chỗ dựa cho các hoạt động vũ trang sau này.

Những ngày cuối năm, Võ Nguyên Giáp cùng đội xung phong tuyên truyền trở về một bản của người Nùng gần hang Pắc Bó. Họ đã ăn Tết Nguyên đán năm 1942 tại đó để chuẩn bị cho công việc trong những tháng sắp tới. Trong những ngày Tết, Võ Nguyên Giáp nói với các đội viên tuyên truyền đến từng gia đình trong bản chúc Tết để thắt chặt quan hệ với nhân dân địa phương. Họ nhận rõ rằng càng sống chan hòa gần gũi với dân thì càng được dân quý mến, tin yêu.

Tuy đã đạt được nhiều thành tích xây dựng phong trào nhưng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí của ông không quên lời căn dặn của Hồ Chí Minh là: “Không được chủ quan, tự mãn và phải luôn luôn cảnh giác cũng như không bao giờ nản chí khi phong trào cách mạng tạm lắng.”

Võ Nguyên Giáp không ngừng củng cố con đường liên lạc từ vùng rừng núi Việt Bắc xuống miền đồng bằng sông Hồng, tạo điều kiện đi lại thuận lợi cho cả các cán bộ tuyên truyền và các đội du kích vũ trang. Con đường liên lạc đó mở rộng dần trong các vùng dân tộc thiểu số. Bằng cách đó, các cán bộ Việt Minh có thể duy trì được mạng lưới liên lạc trong những khoảng thời gian địch khủng bố và các đội vũ trang có thể di chuyển dễ dàng.

Lực lượng Việt Minh tại Cao Bằng muốn liên lạc với cán bộ ở vùng đồng bằng phải đi qua các bản làng cư trú của người Thổ và Mán Tiền, qua vô số con đường, qua rừng núi, qua những cánh đồng, cuộc hành trình có thể kéo dài tới hơn 20 ngày. Người Thổ đã được Việt Minh giác ngộ cách mạng từ sớm, giờ còn lại người Mán Tiền. Ban đầu họ còn tỏ thái độ dè dặt, chờ xem. Được cán bộ Việt Minh giác ngộ, người Mán Tiền dần dần hiểu ra và trở thành cơ sở tin cậy. Nhiều thanh niên người Mán Tiền tình nguyện gia nhập các đội xung phong Nam tiến, dựa vào tập quán cũ, tổ chức các lễ kết nghĩa, long trọng thề hy sinh chiến đấu chống Pháp, Nhật, cứu nước, cứu làng, thực hiện chương trình Việt Minh, trung thành đi theo cách mạng đến cùng.

Người Mán đầu tiên được kết nạp vào Việt Minh tên là Hoan và chỉ sau một thời gian ngắn đã trở thành cán bộ cốt cán của phong trào và công tác rất tích cực. Được đưa trở lại cơ sở hoạt động trong các xóm người Mán, anh được dân làng rất tín nhiệm. Hoan bị Pháp bắt, bị tra tấn mười một lần và cuối cùng bị xử tử. Anh hy sinh mà không hé răng cung cấp cho địch một tin tức nào về phong trào cách mạng. Trước lúc bị xử bắn, giặc đưa anh về làng gặp vợ, anh đưa cho vợ một gói thuốc làm bằng xương hổ luôn luôn giữ trong mình và dặn vợ chuyển cho Võ Nguyên Giáp: “Em hãy nói với đồng chí Văn rằng anh gửi lời thăm hỏi và hãy dùng thuốc này tẩm bổ cho khỏe để có sức làm việc”. Người vợ đã làm đúng theo lời chồng dặn. Bà mẹ của Hoan còn nói với Võ Nguyên Giáp: “Dù con mẹ chết rồi, lúa năm nay không được mùa nhưng mẹ vẫn để dành được ít gạo nếp cho anh em đây! Mẹ coi anh em như con của mẹ, các con phải giết cho được nhiều Tây, nhiều Nhật để người Mán được sống!”

Phong trào Việt Minh mở rộng sang nhiều huyện. Võ Nguyên Giáp ra lệnh tổ chức các Hội cứu quốc ở mỗi làng. Ông theo dõi rất sát sao quá trình hình thành các chi bộ đảng. Chẳng bao lâu, đã có những huyện, những làng, những tổng “hoàn toàn”, nghĩa là mọi người ai cũng tham gia hội cứu quốc.

Lúc này, trên phần lớn lãnh thổ phía bắc của Bắc Kỳ, Việt Minh đã thay thế chính quyền thuộc địa, chính thức xử lý các vụ việc dân sự, từ việc giải quyết các vụ xích mích, tranh chấp đất đai đến cấp giấy giá thú chứng nhận kết hôn. Muốn gây cơ sở cách mạng ở một làng nào đó, cán bộ được đào tạo từ trước đến tuyên truyền giải thích cho mọi người hiểu cách mạng cần gì ở họ. Sau này Võ Nguyên Giáp nhớ lại rằng cán bộ của ông không nói nhiều đến chủ nghĩa cộng sản: “Chúng tôi nói với dân làng để họ hiểu được sức mạnh của chính họ phải được tổ chức như thế nào, quan trọng ra sao để cứu nước, cứu làng, không để cán bộ rơi vào tình thế khó khăn, lúc địch khủng bố thì không được phản bội, không chỉ điểm cán bộ, không báo tin tức cho địch.”

Các cán bộ Việt Minh được cử đến xây dựng phong trào phải tìm một chỗ an toàn ở gần đó, ban ngày vào làng gặp gỡ đồng bào để tuyên truyền giải thích, ban đêm không được ngủ lại trong làng mà phải trở về nơi an toàn. Võ Nguyên Giáp căn dặn rất chu đáo, cán bộ phải có thái độ cư xử thận trọng, đúng mực đối với đồng bào miền núi, không được chủ mời thì không được vào nhà. Phải quét dọn sạch sẽ chỗ họ tạm trú. Hơn thế nữa, nếu đồng bào có nguy cơ thiếu ăn thì tuyệt đối không được nhận phần lương thực đồng bào nhường cho. Võ Nguyên Giáp cũng yêu cầu cán bộ phải cư xử đứng đắn với phụ nữ để họ tin tưởng cán bộ Việt Minh là những người đứng đắn.

Cán bộ phải cẩn thận không được đe dọa, uy hiếp những người đối lập với mình vì suy cho cùng mục tiêu của họ không phải là tranh thủ được sự đồng tình của tất cả mọi người mà là sự ủng hộ của đa số. Khi mục tiêu đó đã đạt được, cán bộ Việt Minh sẽ yêu cầu dân bản cho biết ai có thể là kẻ phản bội hay ai làm việc cho Pháp. Dân bản sẽ chỉ ra địa chủ giàu có, những người cho vay nặng lãi hoặc những người phục vụ cho Pháp. Hầu hết nông dân đều ủng hộ nhiệt thành cách làm này.

Một đội thi hành án được tuyển chọn ngay tại địa phương để trừng trị những đối tượng bị kết án phản cách mạng. Sau khi thanh toán những phần tử đối lập với mình, Việt Minh củng cố quan hệ hợp tác với dân làng và kết nạp những người tích cực nhất trong số họ vào đội du kích. Thế là có thêm một căn cứ địa cách mạng mới. Đội công tác tuyên truyền lại rút đi gây dựng cơ sở ở nơi khác.

Võ Nguyên Giáp rất hài lòng khi thấy Việt Minh phát triển ngày càng mạnh, ảnh hưởng ngày càng lớn. “Mỗi người dân là một người lính, mỗi làng xóm là một pháo đài, mỗi ủy ban Việt Minh là một bộ tham mưu”. Những cố gắng như thế đều đem lại kết quả rõ rệt. Các đội công tác đều kết nạp thêm nhiều đội viên mới, ngoài những thanh niên người dân tộc miền núi còn có người ở thành phố cả nam và nữ tránh các cuộc vây ráp ở các đô thị lên đây tìm nơi an toàn ở những vùng Việt Minh làm chủ. Họ tham gia các lớp học tập chính trị, quân sự và bổ sung vào các đội xung phong tuyên truyền Nam tiến. Võ Nguyên Giáp nhận thấy cần phải mở thêm các lớp học, hàng tháng mỗi lớp đông đến 50 học viên. Sau thấy mở lớp tập trung cũng không đủ đáp ứng nhu cầu của phong trào, nên Võ Nguyên Giáp cho mở lớp huấn luyện chính trị ở các làng có phong trào vững mạnh rồi cử người về giảng.

Phong trào Nam tiến của Việt Minh tiếp tục phát triển và Võ Nguyên Giáp không ngồi một chỗ để chỉ đạo phong trào từ xa. Ông thường xuyên đi về các làng để kiểm tra, thúc đẩy phong trào, nhiều đêm phải trải lá cọ làm giường ngủ luôn ngoài trời ở bìa rừng.

Dưới sự kiểm tra gắt gao, chặt chẽ của ông, có thể có đội viên mới sau khi học tập thấy nhiệm vụ nặng nề quá, sợ không cáng đáng nổi, đã tự nguyện xin ra khỏi đội công tác quay về nhà làm ăn. Hãy tin ở lời ông kể, nếu không muốn cho là chuyện bịa đặt, có một hôm một đối tượng lâu nay vẫn được đánh giá là học tập chăm chỉ, đạt kết quả xuất sắc, thế mà hôm bế mạc lớp học anh ta lên đề nghị với ban phụ trách huấn luyện xin gạch tên khỏi danh sách học viên đã học xong chương trình huấn luyện. Được hỏi tại sao, anh ta thật thà nói: “Được học nhiều thứ quá nhớ không xuể, có thể phạm khuyết điểm vì không làm tròn nhiệm vụ”. Rất xúc động trước thái độ thật thà tự phê bình của anh ta, Võ Nguyên Giáp đã nhân dịp đó động viên khuyến khích mọi học viên phát huy tinh thần phê bình và tự phê bình đồng thời cùng ban phụ trách lớp học rà soát lại chương trình huấn luyện sao cho đơn giản dễ học, dễ nhớ và dễ thực hành, hợp trình độ tiếp thu của học viên.

Võ Nguyên Giáp cùng Chu Văn Tấn ra sức mở rộng mạng lưới hoạt động bí mật ở khắp miền bắc xứ Bắc Kỳ. Hai ông cung cấp tin tức tình báo thu thập về những hoạt động của quân Nhật cho Quốc dân đảng Trung Hoa để đổi lấy sự viện trợ vũ khí và tài chính, mở rộng hoạt động cộng sản ở miền Bắc Việt Nam.

Một phần tài chính quyên góp được đã giúp Võ Nguyên Giáp theo chỉ thị của Hồ Chí Minh lập cơ quan Liên tỉnh ủy ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn vào năm 1942. Căn cứ mới đặt tại Lam Sơn là miền rừng núi có những núi đá đang phân hủy được hình thành từ trầm tích tổ ong màu đỏ chứa lượng lớn nhôm và hidroxit sắt. Võ Nguyên Giáp gọi đây là khu vực “Lô cốt đỏ”. Họ quyết định chuyển vào Lam Sơn vì phong trào quần chúng đang phát triển vững mạnh.

Cơ quan làm việc được đặt trong vùng giáp ranh hai huyện Hòa An và Nguyên Bình. Cán bộ ở trong những ngôi nhà gỗ rải rác trên sườn núi cao. Ở đó có cả nhà họp, nhà ăn, những dãy nhà dài cho hàng trăm học viên của các lớp huấn luyện. Điều kiện sinh hoạt ở vùng Lô cốt đỏ xem ra khấm khá hơn ở Pắc Bó.

Đầu năm 1942, Hồ Chí Minh lên đường sang Trung Quốc, với mục đích tăng cường quan hệ với các đảng phái khác để phối hợp hành động đồng thời tranh thủ ngoại viện. Nhưng mới đặt chân đến đất Trung Quốc, Người đã bị nhà đương cục Quốc dân Đảng Trung Hoa bắt giữ. Chắc hẳn họ biết khá tường tận về sự phát triển đáng lo ngại của Việt Minh ở phần phía bắc xứ Bắc Kỳ, vùng đất mà họ cũng đang dòm ngó. Chính phủ Quốc dân Đảng Trung Hoa thấy rằng vô hiệu hóa phong trào cách mạng của Việt Minh bằng cách bó hẹp phong trào đó vào trong một phạm vi có thể kiểm soát được là có lợi cho họ.

Trong lúc đi thanh tra cơ sở, Võ Nguyên Giáp nhận được thư khẩn cấp của Phạm Văn Đồng cho biết Hồ Chí Minh đã bị Quốc dân Đảng Trung Hoa bắt giữ, nên Võ Nguyên Giáp phải trở về Cao Bằng ngay. Phạm Văn Đồng kể cho Võ Nguyên Giáp nghe Hồ Chí Minh đã bị quân đội Tưởng Giới Thạch bắt giữ như thế nào. Sau đó lại nhận được tin dữ: Hồ Chí Minh đã mất trong nhà giam của quân Tưởng. Võ Nguyên Giáp bàng hoàng, sửng sốt. Sau này ông viết: “Tôi đã hết sức đau đớn.”

Tất cả cán bộ Việt Minh đều tuyệt vọng. Hồ Chí Minh là sự động viên, là nguồn cảm hứng lớn đối với họ. Người đã đưa ra các ý tưởng tốt nhất và làm trung gian hòa giải mỗi khi có bất đồng. Mọi người tự hỏi nếu không có Hồ Chí Minh thì các mục tiêu cách mạng sẽ ra sao? Vài ngày sau Võ Nguyên Giáp đi Ngân Sơn. Để tránh các đội tuần tra của Pháp và các toán lính Nhật, ông chỉ đi về đêm, vượt qua những ngọn đồi hoang vắng mọc đầy cây dại, có lúc phải rẽ lá vạch đường khi vượt các triền núi cao hoang vu đầy cỏ voi. Quang cảnh quạnh hiu như hợp với tâm trạng đau buồn của ông. Đi trong đêm khuya, bóng tối tưởng như bao phủ khắp không gian chưa đủ, mà còn tràn vào tâm trạng ông. Ông không cầm được nước mắt, ngẩng lên nhìn trời đầy sao, thu mình trong nỗi cô đơn và đau khổ.

Mấy ngày sau, trong khi làm việc tại Ngân Sơn, Võ Nguyên Giáp nhận được một tờ báo do một liên lạc viên đem từ Trung Quốc về. Đọc lướt nhanh các tin, Võ Nguyên Giáp bỗng chú ý đến một dòng ghi chú ở ngoài lề một bài báo mà lúc đầu ông tưởng như không tin ở mắt mình, lập tức ông cho rằng không thể ai khác ngoài Hồ Chí Minh đã nhắn về qua dòng ngữ ngắn ngủi này. “Gửi lời thăm và chúc các anh em ở nhà mạnh khỏe, công tác tốt. Ở ngoài này tôi vẫn bình yên”. Tiếp đó là một bài thơ. Làm sao Hồ Chí Minh có thể mất được khi những dòng chữ này chỉ có thể là do Người tự viết trên một tờ báo mới phát hành. Võ Nguyên Giáp nhìn ngày ấn hành ghi trên đầu báo. Đó là ngày sau ngày có tin đồn Hồ Chí Minh mất trong nhà ngục của Quốc dân Đảng. Một tia hy vọng lóe lên trong tim Võ Nguyên Giáp.

Trở về Cao Bằng, Võ Nguyên Giáp tìm cơ hội gặp lại người đầu tiên đã đưa tin đau đớn đó từ Trung Quốc về. Ông hỏi anh ta: “Đồng chí nghĩ gì về bài thơ và lời chú thích ngoài lề này.” “Tôi không biết”, anh ta nói. “Khi tôi ở Trung Quốc, chính một viên quan Quốc dân Đảng đã thông báo cho tôi biết Hồ Chí Minh đã mất”.

Võ Nguyên Giáp yêu cầu anh ta cố nhớ lại thật chính xác xem viên quan Quốc dân Đảng ấy nói gì? Anh ta bóp trán tập trung suy nghĩ một lát rồi nói: “Chỉ nhớ được mấy tiếng si-le, si-le có nghĩa là đã chết. Võ Nguyên Giáp thấy lóe lên một tia sáng. Có thể anh ta đã hiểu sai cụm từ “shi-le, shi-le” phát âm gần giống nhau nhưng chỉ có nghĩa đơn giản là “phải, phải”. Anh ta ngẩn người ra, ngập ngừng nói: “Có thể như thế.” Sau này Võ Nguyên Giáp viết: “Chúng tôi sung sướng đến phát điên. Chỉ vì một sự nghe lầm đơn giản mà chúng tôi đã phải chịu đau khổ và lo lắng đến mấy tháng!”

Dịp Tết Nguyên đán năm 1943, Võ Nguyên Giáp trở lại Cao Bằng để ăn mừng những thắng lợi đạt được trong việc tổ chức cơ sở trong thời gian qua. Năm 1942, Võ Nguyên Giáp và các cán bộ Việt Minh đã đạt được nhiều thành tích. Nhiều đội tự vệ mới ra đời. Ba tỉnh phía bắc là Cao Bằng, Bắc Cạn và Lạng Sơn đã nằm dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của Việt Minh, được gọi bằng một cái tên đơn giản là Cao-Bắc- Lạng. Nhân ngày Tết, Võ Nguyên Giáp và các thành viên trong Ban chấp hành Tổng bộ Việt Minh cùng đại biểu công nhân Cao-Bắc-Lạng đến thăm những hội viên mới gia nhập các đội xung phong Nam tiến, tặng cờ danh dự mang dòng chữ “Đánh thắng”.

Võ Nguyên Giáp có quyền mãn nguyện về thành tích các phong trào Nam tiến. Năm 1941 mới có 1.053 hội viên Cứu quốc thì năm 1943, số hội viên đã tăng lên 3.096 người. Các lớp huấn luyện chính trị và quân sự từ 11 tăng lên 26, cứ mỗi tháng là có một lớp học mới được tổ chức. Học xong được cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp. Ngoài ra còn tổ chức được 10 lớp xóa mù chữ cho dân trong vùng. Ở một số xóm sau buổi làm đồng, dân làng còn tình nguyện làm thêm các công việc trồng rau nuôi tằm, đốt than lấy tiền ủng hộ Việt Minh.

Ngược lại, Đảng dùng số tiền quyên góp ít ỏi ấy để nuôi cán bộ. Người ta làm kho chứa lương thực, xây hầm cất giấu vũ khí trong rừng có tường gạch bao che, có mái lợp bằng ván gỗ, trên cùng lại có cành cây và đất phủ kín. Căn hầm chứa vũ khí khá kín đáo nhiều lần có địch đi tuần qua lại bên trên mà không phát hiện được. Việt Minh còn phái người qua Trung Quốc tìm mua vũ khí đem về trong nước.

Võ Nguyên Giáp cũng cho xây dựng xưởng chế tạo vũ khí. Ông biết rằng dao găm, lựu đạn, giáo mác, súng kíp đã không còn đủ sức chống lại nhà cầm quyền Pháp. Không chịu bó tay trước sự trang bị không ngang sức, Võ Nguyên Giáp huy động các thợ rèn từ dưới xuôi lên xây dựng một xưởng vũ khí ẩn sâu trong vùng “Lô cốt đỏ” để tiếng đe, tiếng búa không lọt được ra ngoài. Dân làng quyên góp chậu sắt, mâm đồng, chậu thau để làm nguyên liệu. Sau nhiều tháng thí nghiệm không kém phần nguy hiểm, công nhân xưởng vũ khí đã có thể chế tạo được địa lôi, các loại mìn chôn dưới đất.

Đây là sáng kiến hay của những công nhân quân giới đầu tiên của cách mạng, họ cố gắng chế tạo mìn hơn là súng. Mìn là vũ khí hữu dụng cho lực lượng du kích. Mìn dễ làm, ít tốn kém, lại nhiều công dụng hơn súng. Mìn có thể được 1, 2 người sử dụng và ít nguy hiểm. Sức công phá của mìn rất lớn. Chỉ một trái mìn chôn dưới đất cho nổ đúng lúc có thể lật đổ một đoàn tàu, đoàn xe cơ giới, chặn đứng cuộc hành quân, đánh sập lô cốt, tòa nhà trú quân hoặc sở bản doanh quân địch. Những vết thương để lại di chứng còn đáng sợ hơn là chết.

Võ Nguyên Giáp và khách đến tham dự các cuộc thử nghiệm vũ khí. Họ nấp sau các mô đất hoặc các tảng đá lớn để tránh những mảnh nổ văng vào người, vũ khí thử nghiệm được đặt trong các hốc đá ngoằn ngoèo buộc vào một đầu dây, người thợ rèn đứng xa hàng trăm mét cầm một đầu dây giật mạnh vào kíp nổ. Võ Nguyên Giáp và mọi người hồi hộp chờ. Đồng chí Cáp phụ trách việc thử nghiệm ra lệnh giật mạnh. Mọi người chăm chú nhìn các hốc đá nhưng chỉ thấy khói bốc lên rồi hết. Chẳng thấy nổ gì cả, cũng chẳng thấy có mảnh kim loại nào văng ra. Võ Nguyên Giáp nhớ lại: “Chúng tôi chờ một lúc lâu. Rồi một tiếng cười vang của một thanh niên người Thổ phá tan bầu không khí im lặng. Anh ta cười rúc rích: Chắc là trái mìn thối!”

Một chút bối rối, Võ Nguyên Giáp tuyên bố cuộc thử nghiệm không thành công nhưng mọi người vẫn không ngừng cố gắng. Đồng chí Cáp và các thợ rèn quay về xưởng miệt mài tìm tòi, suy nghĩ tính toán rồi cuối cùng cũng thành công. Xưởng vũ khí này tiếp tục sản xuất cho đến Cách mạng tháng 8/1945 được mở rộng thành công binh xưởng Lam Sơn. Chính nơi đây đã xuất xưởng một số vũ khí quan trọng mặc dù còn thô sơ để trang bị cho quân đội nhân dân Việt Nam sau này. Lò rèn ở “Lô cốt đỏ” như Võ Nguyên Giáp sau này thường nói có thể coi như công binh xưởng đầu tiên do Việt Minh thành lập, tiền thân của công nghiệp chế tạo vũ khí sau này.

Vùng “Lô cốt đỏ” không chỉ có một lò rèn mà còn có nhiều kho vũ khí được che giấu cẩn thận. Năm 1943, dưới sự chỉ đạo của Võ Nguyên Giáp, một số lớn nhân công đã tập trung xây dựng một trại huấn luyện trong rừng sâu. Doanh trại ẩn mình dưới các tán lá che kín mái, bám vào các sườn núi cheo leo, có nhiều lối vào. Có nhà họp, nhà ăn, chỗ để vũ khí. Lại còn một bãi trống rộng để lấy chỗ tập hợp bế mạc lớp học, phát giấy chứng nhận tốt nghiệp hoặc làm bãi tập.

Năm 1943, người Pháp nhận ra rằng đối thủ Việt Minh của họ không phải là những phần tử gây rối lẻ tẻ mà là cả một phong trào rộng lớn sẽ tranh giành quyền lực với họ. Chúng tăng cường tuần tra canh gác. Tại Cao Bằng, các trụ sở của Ủy ban Việt Minh bị bao vây. Các cán bộ Việt Minh bị phục kích và truy sát. Quân Pháp dán bố cáo yêu cầu nhân dân không được giúp đỡ Việt Minh, không tham gia mọi hoạt động của Việt Minh. Các gia đình có con em theo Việt Minh phải tìm cách liên hệ để bắt chúng quay về nhà hoặc phải gánh chịu mọi hậu quả về việc làm của chúng.

Các đơn vị lính Pháp sục sạo tìm các nơi cất giấu vũ khí, trữ lương thực, phá hủy các kho tàng, hầm hào, san phẳng những xóm làng nghi chứa chấp cán bộ Việt Minh hoặc có hành động ủng hộ, cảm tình với cách mạng. Chúng còn dồn dân vào các khu tập trung để dễ bề kiểm soát. Khá nhiều làng trong tỉnh Cao Bằng trở nên hoang vắng, nhà cửa bị đốt phá tan hoang. Chính quyền thuộc địa còn ra lệnh giới nghiêm từ 6 giờ tối đến 6 giờ sáng. Ngày nào cũng vậy, chúng dùng loa kêu gọi những người theo Việt Minh hãy trở về với gia đình, không cho ai mang một hạt gạo nào ra khỏi làng để triệt đường tiếp tế cho cách mạng. Người Pháp hiểu rằng lúa gạo rất quý đối với Việt Minh. Họ dùng gạo thay tiền trong mua bán hay trao đổi hàng hóa. Không có lúa gạo, Việt Minh sẽ bị tiêu diệt về thể chất và kinh tế.

Nếu lính Pháp bắt được người nào mang tài liệu Việt Minh trong người thì người đó có thể bị đem ra xét xử qua loa rồi bị xử bắn ngay. Cán bộ Việt Minh và những người có cảm tình, ủng hộ Việt Minh sau khi bị tử hình còn bị bêu đầu giữa chợ để uy hiếp tinh thần những ai có dính líu đến Việt Minh. Tàn phá chết chóc, quang cảnh núi rừng tiêu điều thê thảm. Trong một thời gian, Võ Nguyên Giáp đi đâu cũng thủ trong người một quả lựu đạn phòng thân để nếu gặp địch vừa diệt được địch vừa được chết nhanh chóng, không để địch bắt sống. Sau này ông phát hiện điều đó chẳng giúp ích điều gì. “Tuy nhiên tôi vẫn thường mang theo lựu đạn để trấn an”.

Khi giành được thắng lợi, dù là nhỏ nhất họ cũng đều truyền bá rộng rãi để cổ vũ tinh thần và giữ hy vọng cho mọi người. Một lần, một đội tuần tra Pháp càn quét rất kỹ một cánh rừng để tìm Việt Minh. Một mình ẩn nấp kín đáo trong một bụi cây gần đó, một cán bộ trong đại bản doanh của Võ Nguyên Giáp bỗng nhiên lấy lại tinh thần xông thẳng ra ngoài hô lớn: “Xung phong!”. Bọn lính Pháp đã quá mệt mỏi về thần kinh vì lo sợ triền miên với cuộc phục kích, nên khi bất ngờ nghe tiếng hô lớn, chúng đã hoảng sợ vắt chân lên cổ chạy thẳng.

Sức ép của Pháp vẫn tăng lên. Võ Nguyên Giáp đau buồn thấy nhiều gia đình có con em bí mật theo Việt Minh bị dọa nạt khủng bố và giết hại. Người ta tự hỏi không biết có nội gián chui vào nội bộ hàng ngũ cách mạng, làm lộ bí mật cho địch, lấy thưởng không? Chính quyền thuộc địa hứa thưởng rất hậu “hàng nghìn đồng và muối” cho những ai bắt và giết được cán bộ, mang thủ cấp về lấy thưởng.

Trong khi cuộc “Khủng bố trắng” lan rộng, Võ Nguyên Giáp và một cán bộ tên là Thiết Hùng đang tiến hành một khóa huấn luyện cho cán bộ mới gia nhập phong trào. Có dấu hiệu địch truy lùng, lớp học phải rời địa điểm. Ban đêm họ chuyển đến một địa điểm mới. Trời mưa nặng hạt làm mọi người bị ướt hết. Họ phải đốt lửa hong khô quần áo và ngủ trên lớp lá khô trải dưới đất. Lương thực chỉ còn ngô vì thóc chưa kịp giã. Thức ăn là củ chuối rừng nấu với muối. Càng ăn càng xót ruột, sức lực càng hư hao trong lúc cần tập trung nghị lực cho công tác.

Võ Nguyên Giáp bất ngờ nhận được lệnh quay về đại bản doanh. Ông không nỡ để lớp học tự mình đối phó với đội tuần tra Pháp vì đây là lực lượng dự bị quan trọng. Ông yêu cầu được ở lại với lớp học vì nếu ông đi có thể làm mọi người hoang mang, rối loạn. Cùng ngày một đội tuần tra Pháp xuất hiện, lùng sục vào căn cứ, Võ Nguyên Giáp và Thiết Hùng được hai người dân địa phương đưa đến nơi an toàn. Suốt đêm, dưới trời mưa tầm tã, cách ba bước không nhận ra nhau, Võ Nguyên Giáp chệnh choạng lúc nào cũng như sắp ngã, bước sau người dẫn đường trên con đường dốc trơn như mỡ qua những bìa rừng khe suối. Sáng hôm sau, sương mù cũng dày đặc đến mức đi cách nhau có mấy bước vẫn khó nhận ra để làm mốc. Gần nửa buổi sáng, sương tan, Võ Nguyên Giáp mới nhận ra mình đang ở trên một ngọn đồi trống, xung quanh chẳng có lùm cây nào để ẩn nấp. Thì ra sau một đêm lặn lội, họ cũng chỉ quanh quẩn không cách xa điểm xuất phát đêm qua là mấy. Dưới chân đồi tiếng giày đinh, tiếng gọi nhau í ới của bọn lính Pháp tuần tra vọng lên. Võ Nguyên Giáp và những người cùng đi đành nằm sấp, bò sát đất qua các ngọn cỏ thấp và cố lết đến cửa rừng. Họ cố lom khom đi tiếp. Khoảng đến trưa, Võ Nguyên Giáp và Thiết Hùng quá mệt, hai người dẫn đường phải vừa dìu, vừa kéo họ đi. Cuối cùng, đến chiều, mặt trời đã ngả về tây, bóng hoàng hôn đang phủ dần cây cỏ thì cũng là lúc họ đến nơi an toàn.

Mấy ngày sau, Võ Nguyên Giáp thoát khỏi sự nguy hiểm của lính Pháp thì lên cơn sốt rét rừng kéo dài gần hai tháng rưỡi. Ký ninh không có, một thầy lang mang đến ít rễ cây rừng sắc lên cho ông uống. Mấy nữ cán bộ thấy sức khỏe của ông sa sút, bèn giấu mấy cái áo của ông đưa cho thầy cúng trong bản làm phép trừ tà chữa bệnh. Cuối cùng khi lính tuần tra Pháp rút khỏi khu rừng nghi vấn có cơ sở Việt Minh thì đồng chí Cáp (người chỉ huy việc cho nổ thử không thành công trái mìn tự tạo) từ cơ quan lãnh đạo trở về có đem theo một ít ký ninh. Mấy hôm sau Võ Nguyên Giáp đã gượng ngồi dậy được.

Chiến dịch khủng bố của Pháp hòng dập tắt phong trào Việt Minh kéo dài đến cuối năm 1943, rồi sau đó lại kéo dài đến cuối tháng 6/1944. Tuy nhiên, phong trào Việt Minh vẫn phát triển bất chấp mọi hành động khủng bố và đàn áp dã man của địch. Cuối năm 1943 ở một số vùng cán bộ của Việt Minh hoạt động gần như công khai đã tổ chức những cuộc biểu tình vũ trang có đông người dự, luyện tập trên những cánh đồng trống, đánh trận giả giữa ban ngày, đến năm, sáu chục người tham gia. Đôi khi hàng nghìn người được huy động đấu tranh chính trị kết hợp với hoạt động vũ trang chống khủng bố, bảo vệ dân làng rút vào rừng, ngăn chặn các đội tuần tiễu của địch. Chính quyền Pháp không chịu bó tay ngồi nhìn. Cuối tháng 9 gặt hái xong, quân Pháp tiến hành tuần tra đi sâu vào các vùng có phong trào mạnh vừa để cướp lúa, vừa triệt đường tiếp tế lương thực cho Việt Minh.

Ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng đã thực sự trở thành chiến khu có cơ sở chính trị vững mạnh và lực lượng vũ trang bảo vệ. Trước “Khủng bố trắng” của Pháp, Võ Nguyên Giáp quyết tâm giữ vững cơ sở hạ tầng đã mất bao công sức xây dựng, duy trì cảm tình và lòng tin của quần chúng đối với phong trào. Để hoàn thành mục tiêu ấy, ông ra sức tổ chức các chi bộ cộng sản thành những đơn vị hoạt động riêng rẽ, gồm những hội viên trung kiên với cách mạng. Các đảng viên của chi bộ đều giữ kín hoạt động của mình, không cho đảng viên của chi bộ khác biết và cũng không tò mò tìm hiểu hoạt động của đảng viên khác, ở chi bộ khác. Làm như vậy bọn gián điệp và phản động tay sai có xông xáo tò mò đến đâu cũng chỉ có thể dò la được hành tung của một nhóm người trong chi bộ.

Mỗi chi bộ tự tạo ra cho mình một địa điểm liên lạc. Đó có thể là một hang đá hay một căn lán ẩn trong lùm cây bên sườn núi hoặc giữa rừng cây rậm rạp. Các đảng viên gặp nhau, trao đổi tình hình, nhận chỉ thị cấp trên, bàn công việc sắp tới. Võ Nguyên Giáp còn yêu cầu các chi bộ tổ chức nơi cất giấu lương thực đủ ăn ít nhất sáu tháng đến vụ gặt sau. Ngoài ra còn phải dự trữ sắn, ngô, củ mài để dự phòng lúc giáp hạt hay mùa màng thất bát.

Khi nhận được ám hiệu đã quy ước trước, các đảng viên chi bộ bí mật lặng lẽ ra khỏi làng, đi bộ 3, 4 km đường núi hay qua rừng đến chỗ hẹn để sẩm tối gặp nhau ở chỗ hẹn, mở hầm chứa vũ khí và lương thực, chia nhau súng đạn hiếm hoi và khẩu phần lương thực ít ỏi cho từng người, phân công nhiệm vụ và lên đường. Quần chúng cảm tình ở các nơi họ đi qua bất chấp đe dọa của tuần đinh và lính Pháp vẫn cung cấp tin tức và đồ ăn thức uống cho họ.

Việt Minh hoạt động ở một vùng mà những chuyện ma quái thần linh đầy ắp trong văn học dân gian cũng như không thiếu trong những câu chuyện hàng ngày của người dân quê. Nhưng giờ đây cán bộ Việt Minh lúc ẩn lúc hiện, thoắt đến thoắt đi chẳng khác gì những bóng ma, nhưng có khác là sự có mặt và những hoạt động của họ để lại những chứng tích không ai có thể chối cãi. Đó là xác những tên lính bị tước hết vũ khí, một tên gián điệp mặt xạm đen vì bị treo cổ, một lão địa chủ keo kiệt thích cộng tác đắc lực với người Pháp còn hơn để mất ruộng đất cho nông dân đã bị Việt Minh trừng trị... Nhiệm vụ hoàn thành xong, những chiến sĩ bí mật đó lại trở về nơi xuất phát, có khi phải ngủ thiếp đi bên bờ suối hay một gò đất ngoài cánh đồng cho đến sáng bạch. May lắm thì họ về được đến nơi an toàn lúc trời còn mù sương.

Nhờ những hoạt động của các chi bộ, các tiểu tổ bí mật đó mà Võ Nguyên Giáp và các đồng chí của ông đã giữ vững được phong trào, tránh được những cuộc khủng bố càn quét của Pháp. Tuy nhiên, suốt mùa đông 1943 - 1944 là một thời kỳ cam go đối với ông. Địch giăng lưới bủa vây khắp các ngả rừng. Võ Nguyên Giáp và các bạn chiến đấu của ông phải sống nhờ gạo trộn ngô rang với muối. Có một lần Giáp và đồng chí của ông bị kẹt ba ngày liền trong một ngọn núi. Họ phải nấu cơm trong những ống tre non, ép các chùm nho rừng để lấy nước, hết gạo phải ăn củ chuối rừng. Không phải chỉ có thiếu lương thực. Họ còn lo chống lại bom nổ hay cháy rừng do địch đốt để buộc họ phải xuất đầu lộ diện khỏi nơi ẩn nấp.

Tinh thần của họ có thể sẽ khá hơn nếu như không có chuyện Hồ Chí Minh lúc này đang bị cầm tù ở Trung Quốc, nóng lòng sốt ruột trong xà lim của bọn quân phiệt Quốc dân Đảng Trung Hoa. Sau nhiều tháng ngoan cường chống lại sự uy hiếp, dụ dỗ của bọn cai ngục Quốc dân Đảng Trung Hoa, cuối cùng Hồ Chí Minh buộc phải hứa hẹn để Việt Minh cộng tác với Chính phủ Tưởng Giới Thạch. Cuối năm 1943, Người được trả tự do ở Liễu Châu. Nhưng người Trung Quốc nhấn mạnh đây là tự do có điều kiện để giữ Người ở lại thành phố này làm việc cho họ. Do vậy, Hồ Chí Minh phải đợi đến cuối 1944 mới có thể trở về Việt Nam.

Dù sao Hồ Chí Minh vẫn có lý do để vui mừng. Không những Người thoát khỏi cảnh lao tù mà Võ Nguyên Giáp còn tìm cách gửi báo cáo cho Người biết: Việt Minh nay đang kiểm soát một phần lớn ba tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn và phong trào Nam tiến đã thành công lớn. Cuối năm 1943, sau khi phát triển được cơ sở ở thôn Nghĩa Tá gần chợ Đồn, có thể nói trừ thị xã và thị trấn, Việt Minh đã làm chủ được hầu hết vùng nông thôn và rừng núi ba tỉnh, đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng. Bây giờ một cán bộ có thể đi suốt ba tuần qua rừng, qua núi từ Cao Bằng đến Thái Nguyên mà vẫn chưa hết “vùng đất” của Việt Minh. Nghĩa Tá được đặt tên là làng Thắng Lợi. Tại đây trong dịp Tết âm lịch năm 1944, Việt Minh đã mở hội lớn mừng thành công của phong trào.

Tết năm 1944, Võ Nguyên Giáp trở về Cao Bằng. Khi các cán bộ lãnh đạo của Liên tỉnh ủy có mặt để mừng năm mới, Võ Nguyên Giáp trịnh trọng giới thiệu lá cờ danh dự thêm dòng chữ “Xung phong, thắng lợi” tượng trưng cho công việc đã làm được trong năm cũ. Ông nói: “Phong trào Việt Minh vẫn tiếp tục tiến lên mặc cho địch tiến hành đàn áp liên miên từ năm 1941”. Cuộc khủng bố trắng của quân Pháp - Nhật đã lên tới đỉnh cao chưa từng có vào tháng 6/1944. Võ Nguyên Giáp thừa nhận phong trào ủng hộ Việt Minh tạm thời lắng xuống, cơ sở cách mạng bị thu hẹp ở một số vùng.

Thực tế điểm tích cực duy nhất được Võ Nguyên Giáp ghi nhận trong báo cáo gửi cho Hồ Chí Minh ở Liễu Châu là “tinh thần chiến đấu của nhân dân chống khủng bố tiếp tục dâng cao và các tổ bí mật được dịp rèn luyện và trưởng thành về quân sự, nâng cao trình độ giác ngộ về chính trị trong bão táp cách mạng”. Không phải đó là những lời lẽ sáo rỗng đến mức hiểu lầm. Quả thật bên cạnh những thắng lợi đạt được, Việt Minh cũng chịu những tổn thất không ít trong suốt thời kỳ từ tháng 9/1943 đến tháng 6/1944.

Các cán bộ Việt Minh đã nỗ lực phấn đấu để duy trì phong trào và kiên quyết đối phó với cuộc khủng bố trắng của địch. Ngoài công việc tuyên truyền, các đơn vị cũ trong địa phương đã tổ chức phục kích đánh lại các cuộc hành quân tuần tiễu của địch, bảo vệ khu căn cứ, đồng thời kiên quyết trừng trị những tên phản động chống phá cách mạng. Nhờ đó, các cuộc đàn áp liên miên của địch cuối cùng thất bại. Nhìn chung trong toàn miền Bắc, phong trào vẫn tiếp tục tiến lên. Giáp cử cán bộ xuống tận mũi Cà Mau ở miền Nam Việt Nam để xây dựng cơ sở cách mạng.

Tháng 3/1944 Trung Hoa Quốc dân Đảng bảo trợ cho một hội nghị đại biểu các đảng phái cách mạng Việt Nam ở Liễu Châu, có Hồ Chí Minh tham dự. Tuy đã ra khỏi chốn lao tù nhưng Hồ Chí Minh vẫn bị giám sát chặt chẽ, phải làm việc theo ý muốn của bọn quân phiệt Quốc dân Đảng Trung Hoa, không được tự do công khai phát biểu chính kiến riêng của mình. Việt Minh cảm thấy như bị chỉ huy, nếu muốn Hồ Chí Minh được tự do hoàn toàn thì phải đầu hàng trước ý đồ của chúng là lập một mặt trận thống nhất dưới ngọn cờ của Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội. Trong tổ chức mới, người Việt Nam từ trong nước ra chỉ có một ghế trong ban lãnh đạo. Điều đó có nghĩa là Việt Minh chấm dứt vai trò của mình. Sau khi hội nghị bế mạc, các đảng phái khác sẽ ở lại Liễu Châu để chờ quân Đồng minh tiến vào Đông Dương đánh Nhật và kết thúc chiến tranh thế giới. Đoàn đại biểu Việt Minh trở về miền thượng du Bắc Kỳ và đã có thể tuyên bố rằng họ là một thành phần của Đồng minh hội hoạt động dưới danh nghĩa Đồng minh hội, là đại biểu của Đồng minh hội và của chính phủ quốc gia lưu vong. Điều đó cũng có tác dụng thúc đẩy phong trào giành thêm được sự ủng hộ của những phần tử yêu nước không cộng sản trước đây còn đứng ngoài phong trào cách mạng.

Nhiều sự kiện xảy ra trên thế giới làm chính quyền thuộc địa Pháp lo ngại, bên cạnh sự đe dọa ngày càng lớn của Việt Minh. Các nước phe Trục chịu thêm nhiều thất bại trên chiến trường châu Âu. Tàn quân của Đức phải rút khỏi Stalingrad sau khi bị tổn thất nặng nề từ mùa hè 1942 đến tháng 2/1943. Quân đội Xô Viết liên tiếp tấn công quân đội phát-xít. Rồi đến ngày N. các quân đội Mỹ và Anh đổ bộ lên miền Bắc nước Pháp, lập một đầu cầu ở bán đảo Cotentin tức xứ Normandy và từ đây họ từ từ tiến sâu vào nội địa châu Âu. Tháng 7/1944, chính phủ Vichy(1) của Pháp sụp đổ và quân Đức chiếm đóng nốt tất cả những vùng trước đây do chính quyền Petain thân Đức cai quản. Quân Đồng minh giải phóng Paris và chính phủ lưu vong do De Gaulle lãnh đạo tuyên bố là chính quyền hợp pháp chính đáng của toàn nước Pháp. Võ Nguyên Giáp và các đồng chí của ông vô cùng phấn khởi khi nghe được những tin tức này. Họ tin rằng những thay đổi trên cục diện thế giới sẽ có ảnh hưởng tích cực đến tình hình Việt Nam.

1. Vichy: một thị trấn bên bờ sông Loire ở miền Tây Nam nước Pháp, nơi đóng chính phủ thân Đức của Thống chế Petain (ND).

<<Chương 4 “Không mềm, không ấm” Chương 6 “Niềm vui vô hạn” >>

Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Cờ lau dựng nước

Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt