Chiến thắng bằng mọi giá
Chương 16 “Sai lầm và khuyết điểm chỉ là tạm thời”
Chương 16 “Sai lầm và khuyết điểm chỉ là tạm thời”
Khi Việt Nam đã thành một quốc gia độc lập, Võ Nguyên Giáp là Phó thủ tướng nhưng vẫn đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng - Tổng tư lệnh quân đội cũng như Ủy viên Bộ Chính trị. Đến năm 1963, Ông còn là Chủ nhiệm Ủy ban quốc gia về nghiên cứu khoa học. Ông đứng đầu một đội quân 350.000 người, được tăng cường bằng 200.000 quân du kích. Hết thảy cố vấn Trung Quốc đã về nước. Trên nhiều phương diện, chức trách của ông có thể so sánh với Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ kết hợp với Tổng tham mưu trưởng liên quân, thêm vào đó là thế lực và uy quyền của một Tổng Tư lệnh quân đội. Ông có nhiều uy tín và quyền lực. Nhưng tuy đã đã hoạt động nhiều năm trong quân ngũ, ông vẫn là một nhà chính trị trung thành với học thuyết cộng sản. Toàn bộ cuộc đời ông là dành cho những hoạt động trong Bộ Chính trị ngang với những chiến thắng giành được trên chiến trường.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng có vai trò quan trọng nhưng chỉ họp mỗi năm hai lần để xác định đường lối chính trị. Còn chỉ đạo công việc hàng ngày lại là thẩm quyền của Bộ Chính trị và quyền lực thật sự của Võ Nguyên Giáp là ở cương vị Ủy viên Bộ Chính trị. Cơ quan này ra những quyết định qua các cuộc họp đều đặn để phân tích những đòi hỏi về mặt chính trị, làm trọng tài giữa các nhiệm vụ ưu tiên và chi vào đấy những nguồn tài nguyên nghèo nàn và phương tiện tài chính eo hẹp. Võ Nguyên Giáp giờ đây đã là người của bộ thống soái tối cao, đã từng đứng đầu Bộ Nội vụ. Những ai đã theo ông suốt cuộc đời và sự nghiệp đều biết rõ.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, thế giới các thuộc địa đều ngưỡng mộ người Bắc Việt Nam. Người châu Á và châu Phi lâu nay sống dưới chế độ thuộc địa phương Tây vui sướng trước thất bại của Pháp vì họ thấy ở đó những hy vọng lâu nay của mình. Các cường quốc phương Tây có thể bị thua, các dân tộc chìm đắm trong nghèo nàn, thiếu công nghệ hiện đại nhưng lại có thể bẻ gãy gông xiềng lâu nay vẫn trói chặt họ. Một số ít các dân tộc châu Á, châu Phi tỏ lòng khâm phục điều mà Mao đã thực hiện. Nhưng nói cho cùng thì Mao cũng chỉ là đánh lại người Trung Quốc và đất nước Trung Hoa vốn quá rộng nên khó mà thu được hết nhân tâm của người dân Trung Hoa. Còn Bắc Việt Nam lại là chuyện khác. Võ Nguyên Giáp đã đánh bại quốc gia châu Âu từ xưa vẫn được coi là hùng mạnh và ông đã làm được việc đó nhờ vào sự trung thành với lý tưởng chính nghĩa của mình, và dựa vào lòng dũng cảm của quân lính. Ông đã tiến hành một cuộc chiến mà trong đó sức mạnh giữa quân đội của ông và quân địch chênh nhau đáng kể. Tuy nhiên, Điện Biên Phủ còn nhiều hơn thế. Người Việt Nam có đầy đủ những phẩm chất bắt nguồn từ bản chất tinh thần và trí tuệ mà nhiều dân tộc khác cũng có. Trên cơ sở đó, họ tin tưởng, ngưỡng mộ Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh và đất nước Việt Nam. Họ tìm thấy ở đó nguồn sức mạnh của chính mình.
Võ Nguyên Giáp hoan nghênh việc kết thúc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, ở đó ông đặt nhiều hy vọng. Dân chúng nay nhìn ông như một anh hùng dân tộc. Đảng của ông không đạt được mọi điều mong đợi tại Geneva, tuy nhiên, những gì đã đạt được không thể xem thường và cũng đáng để vui mừng như một ngày hội lớn. Thêm nữa, bản thân ông đã chịu nhiều thiếu thốn, gian khổ trong chiến tranh khiến ông mệt mỏi. Từ nay ông có thể trở về với cuộc sống ổn định, bình thường với người vợ trẻ của ông, bà Đặng Thị Bích Hà và ông cũng muốn cho Hồng Anh – cô con gái đang tuổi lớn – một cuộc sống bình thường tại gia đình. Ông đã phục vụ đất nước như một người lính. Ngày nay, công việc của nhà chính trị đang chờ đợi ông để củng cố Đảng ở miền Bắc và thực hành cương lĩnh của Đảng. Ông mới ở tuổi 43, một người còn trẻ so với bề dày quá khứ, khiến ta nghĩ rằng quãng đời sự nghiệp của ông còn dài.
Ngày 1/1/1955, đứng trên lễ đài chỉ cao hơn mặt đất trên 2 m, giữa Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng (vẫn sẽ là Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ mới) và các vị lãnh đạo khác, Võ Nguyên Giáp nhìn về tương lai tươi sáng của đất nước ông. Hôm đó người ta chính thức tổ chức mừng chiến thắng và phía dưới lễ đài có 20 vạn người tụ tập, trong đó nhiều người giương cao quốc kỳ, hoa và chân dung Hồ Chí Minh, Lenin và nhiều khuôn mặt của phong trào cộng sản quốc tế. Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đọc diễn văn. Họ biết rằng có những lực lượng bên ngoài một lần nữa sẵn sàng đánh vào nhà nước đang hồi sinh. Họ biết rằng cũng vẫn là những thế lực trước đây đã cố đánh bại họ.
Họ đang đứng trước một loạt vấn đề không mong đợi do sự đối địch của Chính quyền Eisenhower và những hoạt động của một nhân viên tình báo độc lập. Được Tổng thống Eisenhower chấp thuận, anh em Dulles đã cử đại tá Edward G. Lansdale đến Sài Gòn từ mùa hè năm ngoái và được tự do hành động để củng cố Chính phủ Bảo Đại và làm suy yếu quyền lực của Hồ Chí Minh ở miền Bắc. Lansdale đến Sài Gòn hôm 27/6/1954, sau ngày Ngô Đình Diệm nhậm chức Thủ tướng được một hôm. Với thái độ ngạo mạn, mặc soóc lửng, Lansdale đến thẳng Dinh Norodom (sau này Diệm gọi là Dinh Độc lập) ra mắt Ngô Đình Diệm và đề ra nhiều việc trong dự định và được Diệm chấp nhận.
Đó là bước khởi đầu của Lansdale trong nhiệm vụ được cấp trên giao phó và những tháng sau, ông ta dành phần lớn thời gian để cố vấn cho Diệm. Sau khi định ra những nét lớn của một chính sách nhằm củng cố chế độ Diệm, Lansdale thành lập một ê kíp để giúp Diệm làm mất ổn định chế độ cộng sản miền Bắc. Ông ta kể lại: “Tôi chia ê kíp nhỏ bé của tôi làm hai. Một nửa đi vận động những người di cư miền Bắc, một nửa sẽ ở Sài Gòn để làm những việc khác.” Lansdale chọn Lucien Conein – một trong những người Mỹ đầu tiên đã nhảy dù xuống Đông Dương năm 1944 và sau này trở thành nhân viên CIA đứng đầu phái đoàn quân sự Mỹ ở Sài Gòn (SMM - Saigon Military Mission) - có nhiệm vụ chống lại chế độ của Hồ Chí Minh ở miền Bắc. Mục tiêu của Conein là phát triển một tổ chức bán quân sự sẵn sàng hành động khi người Pháp rút khỏi miền Bắc và Việt Minh sẽ tiếp quản vào đầu tháng 10/1954. Conein sẽ thực thi một kế hoạch phá hoại có hệ thống các công trình công cộng, vận tải và cơ sở cảng biển ở miền Bắc. Conein đặt tổng hành dinh ở Hà Nội, có chân rết ở Hải Phòng và khởi động mọi công việc.
Ê kíp của Conein, bên cạnh các hoạt động khác, sẽ rải truyền đơn giả, được bắt chước một cách cẩn thận để hướng dẫn người dân Bắc Kỳ mọi cách xử sự khi Việt Minh tiếp quản Hà Nội đầu tháng 10/1954. Những “tác phẩm” tuyên truyền này bao gồm những bài báo công kích cải tạo quyền sở hữu và cải cách tiền tệ, đòi được nghỉ 3 ngày để ăn mừng Việt Minh trở về Hà Nội. Người ta còn khuyên các thương nhân làm bảng liệt kê giả về những kho hàng tồn đọng mà chính quyền mới có thể tịch thu. Công việc có vẻ trôi chảy, đánh lừa được cán bộ Đảng đề ra những chỉ thị, hướng dẫn sai lạc cho cấp dưới. Đồng tiền của Việt Minh mất giá tới 50%. Tuy nhiên, nhà cầm quyền mới ở Hà Nội đã phát hiện được việc lừa dối này và tố cáo trên làn sóng phát thanh. Một số quan chức lại tỏ ra nghi ngờ rằng những cảnh báo trên đài không có gì khác là luận điệu tuyên truyền của Pháp.
Ê kíp của Conein còn đề cao những lời phán đoán của các nhà chiêm tinh miền Bắc dự đoán sẽ xảy ra những thảm họa giáng xuống đầu những nhà lãnh đạo Việt Minh, còn những người cầm quyền ở miền Nam sẽ được hưởng một thời kỳ phồn vinh và thống nhất. Những lời tiên đoán chiêm tinh đó được in trong cuốn sách lịch tại tổng hành dinh SMM và được lén lút đưa ra miền Bắc để truyền bá rộng rãi.
Conein cũng bắt đầu tổ chức những đơn vị bán quân sự gồm toàn người Việt để sử dụng chống Việt Minh. Đa số thành viên của các toán phá hoại bán quân sự này được chọn trong số ít ỏi các đảng viên Đại Việt còn sống sót sau năm 1946. Những toán này được trang bị vũ khí và dụng cụ quân sự được SMM đưa ra miền Bắc bằng đường biển, đường bộ và đường không. Khi những lực lượng an ninh Việt Minh tăng cường các biện pháp kiểm soát các hàng hóa cập bến Hải Phòng, SMM bèn chọn một con đường biển khác thay thế để chở dụng cụ và trang bị quân sự ra miền Bắc. Tất cả có khoảng tám tấn rưỡi được chở ra để sau này sẽ trang bị cho các toán biệt kích Đại Việt của Conein bao gồm 14 radio, 300 súng cạc-bin, 90.000 viên đạn súng trường, 50 súng lục, 10.000 viên đạn súng lục và trên 150 kg thuốc nổ. Khoảng giữa tháng 4, các toán biệt kích sẽ được phái ra miền Bắc.
Conein và các toán của ông ta nhằm vào nhiều mục tiêu và chỉ định các mục tiêu khác sẽ phá hoại sau này: nhà máy điện, mỏ than, hệ thống thủy lợi, cầu cống, không kể hệ thống điện thoại Hà Nội, Hải Phòng, các kho xăng và thiết bị cảng ở Hải Phòng. Họ sẽ phải hành động rất thận trọng vì hiện nay Mỹ chỉ còn duy trì tại Hà Nội một tòa lãnh sự nhỏ bé, một nhóm viện trợ và cố vấn quân sự (MAAG) và như Conein nói: “Chúng tôi không thể làm những điều có thể phương hại đến họ. Nếu họ (tòa lãnh sự và MAAG) không có ở đó, chúng tôi lẽ ra đã làm được nhiều điều.” Ngày 9/10/1955, Mỹ rút tòa lãnh sự Mỹ và nhóm MAAG cùng những đơn vị cuối cùng của Pháp khỏi Hà Nội.
Thiếu tá Cao Pha nay là Phó viện trưởng Viện Lịch sử quân sự tại Hà Nội nhắc lại những cố gắng của SMM ở Hà Nội trong những ngày đó: “Mục tiêu của họ đầy tham vọng nhưng tổ chức và công việc chuẩn bị thì chưa đến tầm. Phương án thì thiết kế vội vàng. Dĩ nhiên chúng tôi đã chuẩn bị đối phó với những âm mưu đó. Người Mỹ đã sử dụng những bọn sẵn sàng phản lại Tổ quốc được tuyển mộ trong các đảng chống cộng hay trong những nhân viên cũ của Phòng Nhì Pháp… Đó là bọn phản bội và lính đánh thuê không có lý tưởng. Họ chỉ làm việc vì tiền cho nên chúng tôi tóm cổ chúng rất dễ. Chúng tôi đã phát hiện ra bọn chúng nhờ nhân dân đã giao nộp chúng cho chúng tôi”.
Cao Pha sôi nổi kể lại nhà cầm quyền miền Bắc đã nhanh chóng tìm ra những nơi cất giấu vũ khí của Conein: “Những thứ chúng tôi tìm được xung quanh Hải Phòng và dọc sông Hồng đã góp thêm cho kho vũ khí của chúng tôi. Tóm lại, SMM đã hoạt động quá vội vàng. Họ trút hết niềm tin vào bọn phản quốc, dùng chúng làm tay sai để đánh lừa nhân dân chúng tôi. Lansdale và Conein muốn phá hoại nhà máy điện nhưng dưới chế độ mới, công nhân là chủ nhà máy, tự mình đảm nhiệm công việc an ninh để bảo vệ nhà máy. Chính sách của Mỹ những ngày đầu là phá hoại Hiệp Định Geneva và thay chân Pháp tại Việt Nam. Chúng tôi phải đối phó những mưu toan đó. Mỹ cố tát cạn nước biển để bắt cá”.
Trong lúc những toán biệt kích hoạt động ở miền Bắc, thì tại Sài Gòn, Lansdale ra sức cố vấn cho Diệm. Ông ta nghĩ miền Nam phải mạnh về mọi mặt và cùng với nhiều việc khác, chế độ phải tranh thủ được sự ủng hộ của dân chúng. Lansdale muốn khuyến khích một số lớn dân miền Bắc di cư vào phía nam của giới tuyến 17 theo điều khoản của Hiệp định Geneva cho phép trong thời hạn 300 ngày. Diệm không nghĩ nhiều đến chuyện đó. Việc đó không làm ông ta quan tâm và ông ta cũng chỉ dự tính số người di cư không quá 10.000 người. Nhân viên cơ quan phát triển quốc tế của Mỹ trong dự kiến về số lều bạt để chứa những người di cư cũng ước tính con số đó. Nhân viên Chữ Thập đỏ Quốc tế thì chuẩn bị người và phương tiện cứu trợ cho vài nghìn người di cư. Các nhà đương cục Pháp đã nhận giúp những ai muốn ra đi và chỉ dự kiến con số gần 30.000 người, đa số là địa chủ và nhà buôn.
Lansdale tìm thấy lập luận xem ra có vẻ thuyết phục: nếu có tuyển cử thì có thêm cử tri ủng hộ, do đó có nhiều khả năng thắng cử. Diệm nghe theo luận điệu đó, ông ta cho phép tiến hành một chiến dịch rộng rãi để thuyết phục người dân miền Bắc bỏ lại nhà cửa để bắt đầu một cuộc sống mới ở miền Nam.
Các nhà đương cục Việt Minh phản ứng một cách giận dữ với kế hoạch của Lansdale. Họ phàn nàn rằng Mỹ âm mưu muốn chia cắt lãnh thổ Việt Nam, dùng mọi mưu toan và tiền bạc để dựng nên ở miền Nam một chính phủ bù nhìn bao gồm những phần tử phản động bị nhân dân thù ghét nhất… Các “cố vấn” Mỹ thực sự là những ông chủ ở miền Nam, nhất là Lansdale nắm mật vụ.
SMM của Lansdale ra sức xúi giục người dân miền Bắc rời bỏ quê hương. Hai mươi vạn người ra đi mà không phải thuyết phục gì nhiều. Đó là gia đình những quân nhân đã phục vụ dưới lá cờ của Pháp trong các đơn vị phụ thuộc của quân đội viễn chinh không có sự lựa chọn nào khác hơn là đi với ông Diệm. Một số khác thì tin vào lời đồn: các đơn vị Trung Cộng sẽ tràn vào miền Bắc. Nhiều thương nhân và địa chủ đáp tàu ra khơi trước khi nhìn thấy tài sản đất đai của họ bị Chính phủ Hồ Chí Minh tịch thu. Một số nhạy cảm với những lời phỏng đoán chiêm tinh. Gần bảy vạn con người bị đầu độc vì những luận điệu của SMM cho biết các tín đồ Công giáo sẽ phải bỏ đạo nếu ở lại với cộng sản miền Bắc. 60% trong số hơn 1 triệu dân Công giáo thu xếp hành lý ra đi. Khắp các thôn xóm, làng mạc của người Công giáo trong vùng lưu vực sông Hồng, những tín đồ đi theo các tu sĩ lớn tiếng rêu rao: “Đức Mẹ đồng trinh đã vào Nam, tín đồ Công giáo chúng ta phải đi theo”, hoặc ở các chợ người ta rì rầm, rỉ tai nhau Chúa sẽ biến miền Bắc thành hoang mạc. Sợ bị trả thù, sợ mất đạo tại một vùng đất nước bị Chúa bỏ rơi, những người đó trịnh trọng quay mặt về phương Nam.
Con số người đăng ký di cư đột ngột tăng lên vào cuối năm 1954 và đầu năm 1955. Cảng Hải Phòng chật ních những người yêu cầu ra đi, thiếu nơi trú ẩn, thiếu thức ăn, thiếu cả thuốc men. Rất nhiều nước xin được giúp đỡ cuộc di cư lớn vào cuối 1954. Chính phủ Quốc Đân Đảng ở Đài Loan, Chính phủ Anh, Pháp và các tổ chức cứu trợ tư nhân, kể cả hạm đội 7 của Mỹ cũng góp phần vào cuộc di cư đó.
Tuy rất tức giận trước làn sóng ra đi đó, Võ Nguyên Giáp vẫn ra lệnh cho quân đội giúp đỡ dân di cư mỗi khi có thể. Bùi Tín, đến gần đây vẫn là Phó Tổng biên tập báo Nhân dân, lúc đó là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 14 của Đại đoàn 304 và đã chiến đấu ở Điện Biên Phủ. Lúc đó đơn vị của Tín đóng ở Nghệ An và thiếu tá Tín đã thấy tình trạng khổ cực của số lớn đồng bào khi trở thành người di cư. Họ đi theo đường bộ hay đường biển trên những chiếc thuyền nan. Tín cố thuyết phục một số ở lại khi họ tin theo tu sĩ của họ và ra đi. Trên Quốc lộ 1 có hàng nghìn, hàng vạn người gồng gánh lũ lượt ra đi. Tín nói: “Rất nhiều người khóc vì họ phải rời bỏ làng quê nơi chôn rau cắt rốn của họ. Họ chào từ biệt chúng tôi. Rất nhiều người day dứt giữa tình cảm tôn giáo và tình cảm gia đình. Đó là những nông dân nghèo khó chỉ có vài bộ quần áo, một ít gạo, một manh chiếu, một tấm chăn mỏng để ngủ. Họ phải đi nhanh (cho kịp thời hạn 300 ngày được lựa chọn ra đi theo quy định của Hiệp nghị Geneva), không có xe ôtô, không tàu hỏa. Thật khủng khiếp”.
Tín còn kể lại: “Đối với nhiều người, điều quan trọng nhất là giữ cây thập ác. Nhiều người quỳ bên ngôi nhà của họ. Một số sau khi lên đường được 200 m về hướng Nam, quay lại ôm chặt gốc cây trong vườn ngồi khóc. Phụ nữ địu con trên lưng. Thật là đau khổ khi phải nhìn thấy người đang ốm cũng cố lết đi. Đa số dân Công giáo Nghệ An sống gần bờ biển. Ở một số vùng trong tỉnh, làng mạc hoang vắng. Những khẩu hiệu đã thuyết phục họ rằng Chúa vào Nam”.
Tín và các đồng đội của mình làm mọi việc có thể được: “Ban đầu dân sợ không dám để chúng tôi vào nhà. Chúng tôi không mang theo vũ khí và chỉ ở đó để giúp đỡ họ. Lính của tôi cũng không cầm được nước mắt trước đau khổ của họ”. Người của Tín nhường khẩu phần lương thực cho họ, mang hộ đồ đạc, bế con cho họ. Anh em bộ đội còn cõng cả người già trên lưng trên đoạn đường đến hơn 10 km ra chỗ tàu đậu, trước khi trở về đơn vị. Trên một triệu người đã di cư vào Nam.
Trong khi diễn ra làn sóng di cư đó, Võ Nguyên Giáp còn phải lo đưa bộ đội ở Nam giới tuyến ra tập kết ở miền Bắc như Hiệp định Geneva quy định. Các đơn vị đó rồi đây sẽ phải làm gì? Võ Nguyên Giáp có ý muốn không để mất những thành tựu đã vất vả mới giành được ở các vùng phía Nam vĩ tuyến 17 nay sẽ giao cho đối phương quản lý. Ông ra lệnh cho phần lớn lực lượng tập kết ra Bắc nhưng cũng ra chỉ thị người miền Nam trước đây đã chiến đấu trong hàng ngũ Việt Minh phải chuyển vào hoạt động bí mật, cất giấu vũ khí, ngụy trang các cửa hầm. Đó là những con người đã từng hoạt động ở Chiến khu C và D ở phía bắc và đông bắc Sài Gòn, trong vùng Phước Tuy ở phía đông nam Sài Gòn và vùng sông Tiền, sông Hậu trên bán đảo Cà Mau. Võ Nguyên Giáp quyết định phải giữ gìn các căn cứ đó. Người ta cất giấu vũ khí cùng các loại đạn dược, điện đài và chất nổ trong các hầm được ngụy trang kỹ lưỡng. Võ Nguyên Giáp biết rằng cuộc đấu tranh ở miền Nam trong hai năm tới sẽ nặng về chính trị hơn là quân sự, sau đó là tuyển cử để thống nhất đất nước.
Nhiều đơn vị Việt Minh xuống tàu Ba Lan ở Vũng Tàu và Quy Nhơn để đi tập kết ra Bắc. Họ cũng dùng cả tàu Liên Xô nhưng do Mỹ cung cấp trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhiều vỏ tàu cũ kỹ, hoen rỉ, người ta nghĩ rằng chúng không bao giờ được sơn lại từ khi xuất xưởng. Bùi Tín nhớ lại tên của một chiếc tàu trong số đó là tàu Belinski. Tiếp đó chỉ có bảy vạn người đi tập kết ra Bắc. Số còn lại – bộ phận quý báu nhất của cơ sở hạ tầng du kích của Võ Nguyên Giáp – sẵn sàng chờ lệnh. Khi Võ Nguyên Giáp cần đến họ, một lần nữa họ sẵn sàng đáp lại lời kêu gọi hành động.
Hồ Chí Minh biết rằng chính phủ của ông đang phải trải qua nhiều thách thức mới. Đó là những toán hoạt động bí mật của Mỹ như SMM của Lansdale hoặc tình trạng khó khăn của miền Bắc sau khi ra khỏi cuộc chiến tranh kéo dài gần một chục năm. Và bây giờ cũng là thời gian áp dụng các lý thuyết cộng sản do Đảng đề ra. Vì vậy, Hồ Chí Minh bắt đầu sắp xếp ngay các ưu tiên. Trong những thay đổi chính trị không thuận lợi mà Hồ Chí Minh đã áp dụng, Võ Nguyên Giáp vẫn tiếp tục là người có uy tín nổi bật. Do vậy, ông cũng phải chịu trách nhiệm một phần về những khó khăn chồng chất mà đồng bào ông phải chịu trong những năm đó.
Từ năm 1946, Việt Minh đã tìm cách thanh toán những quan điểm chính trị được đánh giá là phản động. Bản thân Võ Nguyên Giáp vạch kế hoạch loại đối thủ. Bộ Chính trị quay sang việc loại bỏ biểu hiện lừa bịp, thối tha về tư tưởng: cá nhân chủ nghĩa, tự do chủ nghĩa, lãng mạn chủ nghĩa, lý thuyết về các quyền tự nhiên của con người, sự khoan dung, cuối cùng mọi học thuyết mà trong đó có thể thấy ảnh hưởng của triết học và văn hóa Pháp. Từ nay người Pháp đã ra đi.
Chính phủ thực hiện chia ruộng đất cho nông dân. Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cho Trường Chinh để chỉ đạo cuộc cải cách ruộng đất. Trường Chinh chấp nhận mệnh lệnh của Hồ Chí Minh và nhanh chóng lập ra các “tòa án” của cải cách ruộng đất. Tại mỗi xã đội, cải cách xác định ai là những địa chủ xấu để tước quyền sở hữu đối với những ruộng đất đã có được nhờ những thủ đoạn bất lương. Chính sách này cho phép những công dân không có ruộng đất đang ở nấc thang thấp nhất trong xã hội khốn khó của mình được sử dụng quyền lực chính trị lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong cuộc đời. Đa số trong số họ là những con nợ lâu ngày không trả được gốc và lãi chồng chất từ thế hệ này sang thế hệ khác, thường chỉ mang trên mình bộ quần áo rách rưới. Những tình cảnh khá hơn đôi chút chỉ có 1/9 mẫu ruộng và có lẽ vài con vịt, thực tế là chẳng có gì đáng gọi là tài sản.
Có thể là Hồ Chí Minh đã định chờ đợi một thời gian cho đến khi nào làn sóng di cư chấm dứt mới tiến hành cương lĩnh chia ruộng đất cho nông dân để không làm các tầng lớp khác trong dân chúng phải hoảng hốt rời bỏ quê hương làng xóm để vào Nam. Khi thời gian tự do chọn lựa nơi định cư sắp hết, đích thân Trường Chinh triệt để thi hành cải cách ruộng đất. Nông dân được thông báo chính họ phải tự phát hiện ra những người trong làng đã lợi dụng sức lao động của người khác để cho thuê đất ruộng hoặc nông cụ, bán thóc giống hoặc ngay cả những người đã nhắm mắt trước những hành động bóc lột ấy. Trường Chinh ra sức đẩy mạnh cuộc cải cách vào đầu năm 1956. Các cán bộ Việt Minh thay phiên nhau trong quá trình đó. Cán bộ vào sống trong các làng xã và trong các cộng đồng thì cô lập những người bị kết án là địa chủ và thuyết phục người làng trở thành những công tố viên buộc tội địa chủ.
Gần đến tháng 9/1956, Hồ Chí Minh nhận thấy những sai sót trong việc thực hiện cải cách ruộng đất nên đã quyết định chấm dứt chương trình cải cách này. Ngày 17/8, Hồ Chí Minh viết thư công khai xin lỗi về những sai lầm, hứa sẽ kiên quyết sửa sai. Ngày 24/8 báo Nhân dân, cơ quan Trung ương của Đảng ghi nhận rằng nhiều người yêu nước bị xúc phạm danh dự, bị làm nhục, bị cầm tù và thậm chí xử tử. Mọi người tiếp tục run sợ tự hỏi không biết còn điều gì sẽ xảy ra nữa đây?
Tháng 10, Hồ Chí Minh đình chỉ chương trình cải cách và tuyến bố một chiến dịch sửa sai bắt đầu.
Trong lễ kỷ niệm thành lập Đảng Lao động Việt Nam, Võ Nguyên Giáp thừa nhận: “Phong trào (cách mạng) của chúng ta trải qua bước thăng trầm. Tiến bộ không phải lúc nào cũng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Giáp vẫn luôn là một người mác-xit chân chính, ông tuyên bố: “Đảng đã tự phê bình và tiến hành sửa sai. Sự lãnh đạo của Đảng đã đem lại thắng lợi không thể phủ nhận (…). Sai lầm và khuyết điểm chỉ là tạm thời.”
Vũ Hắc Bồng, Giám đốc Ngoại vụ Sài Gòn đã thổ lộ với một nhà báo: “Thật thà mà nói công tác quản lý không phải là điểm mạnh của chúng tôi. Ngay từ đầu chúng tôi đã phạm sai lầm. Chính vì vậy, đất nước chúng tôi còn phải chịu những đau khổ do sự quản lý (kém cỏi) của chúng tôi. Chúng tôi đã chịu đau khổ nhiều về chiến tranh, chúng tôi muốn xây dựng nhanh chóng nền kinh tế của chúng tôi. Chúng tôi đã sai lầm từ chính học thuyết. Thí dụ chúng tôi đã tập thể hóa mọi thứ, đáng lẽ không nên làm như thế.”
Tướng Giáp làm theo khả năng có thể của mình. Lính của ông – ngay cả những sĩ quan tốt nhất, tất cả đều xuất ngũ, mỗi người đều được đề bạt vì đã thực hiện nghiêm chỉnh bổn phận của mình hoặc vì đã chiến đấu dũng cảm chống kẻ thù. Ngược lại với chế độ phục vụ của sĩ quan trong quân đội phương Tây, lính của Võ Nguyên Giáp không luân chuyển từ một chức vụ chỉ huy sang chức vụ tham mưu rồi trở lại chỉ huy, như vậy sẽ tạo cho sĩ quan có cơ hội trau dồi kiến thức và bổ sung kinh nghiệm. Người của Võ Nguyên Giáp là những kỹ thuật viên chỉ biết chuyên môn của mình. Ông cho mở ở gần Hà Nội một trường đào tạo cán bộ tham mưu. Tại đây cố vấn Trung Quốc huấn luyện cán bộ của ông trong các chức năng tham mưu cũng như các kỹ thuật chiến đấu bộ binh và pháo binh, thậm chí các kỹ thuật sử dụng cả hai.
Lần đầu tiên pháo binh Việt Nam được học cách bắn cầu vồng hơn là bắn thẳng. Họ liên tục tập luyện theo những cự ly do Võ Nguyên Giáp đích thân ấn định. Ông cho xây dựng những trường bắn súng trường, tìm mọi cách để lính bộ binh trở thành những xạ thủ ưu tú. Võ Nguyên Giáp bắt đầu tiêu chuẩn hóa súng và đạn dùng trong bộ binh. Ngoài ra, ông còn cho thành lập lực lượng không quân nhỏ bé, gửi người đi học lái máy bay ở Trung Quốc và yêu cầu Mao cung cấp máy bay. Tướng Giáp còn ra lệnh thành lập hải quân, đặt sở chỉ huy hải quân ở Vinh, tại đây sĩ quan và binh sĩ hải quân được học cách phòng thủ bờ biển và sử dụng những tàu tuần tiễu nhỏ.
Đã đến lúc người ta cần những cơ cấu quân sự đó nếu muốn lấy lại miền Nam và có những tin tức để lọt ra từ miền Nam cho biết tình hình ở đó đáng lo ngại. Đáng lẽ tan rã do xâu xé nội bộ và bị vô hiệu hóa thì chế độ Cộng hòa miền Nam lại tỏ ra mạnh hơn. Phần lãnh thổ phía Nam này càng được củng cố và càng tự tin thì miền Bắc càng ít có khả năng lôi kéo miền Nam vào qũy đạo của mình.
Được Lansdale và những người Mỹ khác giúp đỡ, Diệm ngày càng gia tăng sự kiểm soát đối với Chính phủ miền Nam. Trong hai tháng 9 và 10/1954, Tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng quân đội hình như chuẩn bị cuộc đảo chính. Lansdale biết trước nên đẩy Hinh đi nghỉ hè tại các nơi ăn chơi ở Manille. Nhờ hối lộ, Lansdale thuyết phục được Trịnh Minh Thế, lãnh tụ giáo phái Cao Đài – một đối thủ của Diệm – đưa lực lượng vũ trang Cao Đài về sáp nhập vào quân đội Cộng hòa. Đối với những người cầm đầu giáo phái Hòa Hảo, Lansdale cũng dùng biện pháp tương tự. Trên 10 triệu đôla của CIA được dùng để lôi kéo đối thủ đi theo những người lãnh đạo quốc gia mới của miền Nam.
Trịnh Minh Thế được nhận khoảng từ một đến hai triệu đôla, Nguyễn Thành Phương – một tướng Cao Đài khác – yêu cầu được nhận gần 4 triệu đôla để trả lương tháng cho quân lính dưới quyền ông ta. Một tướng Hòa Hảo là Trần Văn Soái được nhận 3 triệu đôla. Đó là một biện pháp tốn kém nhưng bằng cách đó Lansdale đã vô hiệu hóa đối thủ của Diệm. Thế lực được củng cố, Diệm tấn công Lê Văn Viễn tức Bảy Viễn cầm đầu lực lượng Bình Xuyên – một đối thủ hùng mạnh nhất và cũng là mafia Việt Nam. Bảy Viễn còn là một tên cướp đường thủy đã kiểm soát mọi thói xấu ở Sài Gòn: cờ bạc, đĩ điếm, buôn lậu và thuốc phiện, kiểm soát một sòng bạc – tổ hợp ăn chơi ở Chợ Lớn. Viễn đã mua được ở Bảo Đại chức chỉ huy cảnh sát đô thành Sài Gòn và cấp tướng trong quân đội quốc gia trong lúc ông vua này đang thiếu tiền để ăn chơi trác táng. Diệm quyết định tiêu diệt đối thủ hùng mạnh này cùng với 25.000 quân Bình Xuyên, tổ chức đánh úp lực lượng Bình Xuyên, đẩy bọn chúng ra vùng đồng lầy ở ngoại ô Sài Gòn.
Rồi Diệm tìm cách loại trừ Bảo Đại, người của Pháp thỉnh thoảng vẫn cố gắng gây ảnh hưởng đến chiều hướng phát triển các sự kiện ở Sài Gòn. Lansdale xui Diệm tổ chức trưng cầu ý dân xem để Bảo Đại hay Diệm là Quốc trưởng. Ngày 23/10/1955, dân chúng đến các phòng bỏ phiếu. Kết quả Diệm chiếm 98% số phiếu bầu (5,7 triệu phiếu ủng hộ Diệm và 63.000 phiếu bầu cho Bảo Đại). Ở Sài Gòn, Diệm được 605.025 phiếu, nhiều hơn tổng số cử tri đăng ký. Buổi tối, đích thân Diệm tuyên bố thắng cử Tổng thống.
Bảo Đại không còn là nguy cơ đe dọa vị trí của Diệm. Lực lượng Bình Xuyên đã được đẩy ra khỏi Sài Gòn. Các giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo không còn đáng kể vì các tướng chỉ huy đã nhận những món tiền khổng lồ để sáp nhập lực lượng vũ trang vào quân đội Cộng hòa trước khi bị thanh trừng dần và hoàn toàn tan rã. Ngô Đình Diệm từ nay đủ tự tin để theo đuổi mục tiêu mới. Ngày 19/1/1956, ông ta đọc một bài diễn văn sặc mùi bài ngoại: “Sự có mặt của quân đội nước ngoài dù thân hữu đến đâu cũng không phù hợp với khái niệm độc lập hoàn toàn”. Hẳn là ông ta không đả động đến Lansdale và toán lính quân nhân Mỹ trong MAAG mà chỉ nhằm thẳng vào quân đội Pháp. Đã đến lúc Pháp phải rút quân khỏi miền Nam. Pháp phản đối nhưng Mỹ ủng hộ Diệm trong lĩnh vực này cũng như trong lĩnh vực khác. Thế là những tàn tích cuối cùng của đế quốc thuộc địa Pháp bị xóa sạch vào ngày 10/4/1956 khi con số 1.000 lính Pháp cuối cùng xuống tàu đậu ở cảng Sài Gòn để trở về nước.
Tổng thống mới của Việt Nam Cộng hòa từ nay hướng sự chú ý về tổng tuyển cử toàn quốc như Hiệp nghị Geneva quy định là phải tiến hành trong năm 1956. Một số người am hiểu tình hình nghĩ rằng Diệm không bao giờ có thể thắng cử. Giám đốc CIA là một trong những người biết rõ thống nhất đất nước là không thể tránh khỏi nếu cuộc tuyển cử diễn ra bên ngoài sự giám sát của Liên Hợp Quốc. Hồ Chí Minh với cơ sở chính trị mạnh mẽ và rộng khắp miền Nam nhất định sẽ thắng cử. Năm 1956 Allen Dulles đệ trình lên Tổng thống Mỹ Eisenhower một bản báo cáo tiên đoán rằng thắng lợi của Hồ Chí Minh như triều dâng. Eisenhower đã từng biết rõ những thắng lợi kiểu này của cộng sản nên chắc chắn là không muốn lại xảy ra ở miền Nam Việt Nam. Ông ta có một lối ra. Đó là Diệm không ký vào Hiệp định Geneva. Diệm có thể tuyên bố như đã nói hôm bế mạc Hiệp định Geneva 1954 là chính phủ ông ta không bị ràng buộc gì vào các hiệp định đã ký kết.
Giữa năm 1956, thời hạn tổng tuyển cử như Hiệp nghị Geneva quy định càng đến gần. Võ Nguyên Giáp cũng tỏ ra giận dữ trước từ sự chối của Diệm. Võ Nguyên Giáp và những nhà lãnh đạo miền Bắc đã nghĩ rằng Pháp sẽ ở lại miền Nam lâu hơn để giám sát các cuộc bầu cử. Nhưng Pháp đã ra đi. Từ nay miền Nam là một quốc gia độc lập được nguồn tài chính không bao giờ cạn của Mỹ ủng hộ. Hoa Kỳ là cường quốc duy nhất có mặt ở miền Nam Việt Nam và chỉ có đường lối đối ngoại duy nhất là chống lại chủ nghĩa cộng sản. Mỹ muốn có một chính phủ chống cộng ở Sài Gòn – bất kể chính phủ ấy có dân chủ hay không – Mỹ bày tỏ ý muốn và đòi hỏi đó một cách rõ ràng, dứt khoát. Được Mỹ khuyến khích, Diệm cương quyết từ chối tham gia tổng tuyển cử quy định tại một hội nghị mà ông ta không bao giờ thừa nhận các kết luận.
Bùi Tín, một nhà báo, là viên chức của Đảng trong một thời gian dài nhớ lại: “Diệm phá hoại tổng tuyển cử năm 1956. Nhiều cán bộ Việt Minh đã ở lại miền Nam tin rằng tổng tuyển cử năm1956 sẽ thống nhất đất nước. Khi thấy rõ là không có tổng tuyển cử, họ thất vọng ghê gớm”. Tự nhiên một số lớn dân chúng cuối cùng quyết định chuyển cư ra miền Bắc. Họ không có lý do gì để ở lại. Hồ Chí Minh tố cáo Diệm từ chối tổng tuyển cử, phá hoại Hiệp định Geneva nhưng chẳng làm được gì. Đó là “việc đã rồi”. Hồ Chí Minh không có quyền gì áp đặt trưng cầu dân ý (ở miền Nam) và không một nước nào nằm trong các nước lớn tham gia Hiệp định Geneva mong muốn hoặc có thể làm được điều đó. Võ Nguyên Giáp tuyên bố cuộc đấu tranh ở miền Nam sẽ lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.
Thái độ của Võ Nguyên Giáp đối với Mỹ đã có thời gian thân thiện khi còn cộng tác với Allison Kent Thomas và các thành viên khác trong đội Con Nai của OSS, nay quay sang đối nghịch. Cuối năm 1957, ông lấy làm tiếc cho nhân dân Việt Nam còn phải chiến đấu để thống nhất đất nước. Ông nói về “bọn can thiệp Mỹ” và bè lũ tay sai, tập đoàn Ngô Đình Diệm. Rồi đột nhiên, không rõ lý do tại sao người ta thấy ông rời khỏi sân khấu chính trị trong nhiều tháng. Rồi năm 1958 người ta thấy ông hoạt động trở lại. Có thể ông đã qua một trận ốm. Ông đã trải qua nhiều gian khổ, thiếu thốn trong những năm chiến tranh nên sức khỏe bị suy giảm. Dù lý do vắng mặt của Võ Nguyên Giáp không được xác định, nhưng việc ông trở lại hoạt động rất đúng vào lúc những nhà lãnh đạo cộng sản đang bắt đầu triển khai chiến lược đối với miền Nam bị “chiếm đóng”.
Đối với tất cả các nhà quan sát, hiển nhiên là người Bắc Việt Nam cho rằng vĩ tuyến 17 chỉ là giới tuyến quân sự tạm thời chứ không phải là đường biên giới phân chia hai quốc gia riêng biệt. Bản thân miền Bắc không phải là một quốc gia hoàn chỉnh. Võ Nguyên Giáp nói về miền Bắc là “nửa nước được giải phóng” và vùng lãnh thổ nam giới tuyến 17 là đất đai bị chiếm đóng. Ông miêu tả miền Bắc như là “hậu phương lớn của quân đội ta”, là “cơ sở cách mạng của cả nước”.
Các nhà lãnh đạo cộng sản không phải chỉ nói chuyện chữ nghĩa. Một cách công khai, họ muốn chính phủ “bù nhìn” ở miền Nam Việt Nam bị loại bỏ và hai nửa của đất nước sẽ thống nhất dưới sự chỉ huy của Hồ Chí Minh. Điều này không phải là rõ ràng đối với bản thân các Ủy viên Bộ Chính trị lúc đó, tức là phải đầu tư công sức vào miền Nam đến mức nào. Trước hết là người miền Nam phải đứng lên làm sụp đổ chế độ Diệm từ bên trong, bằng các cuộc phá hoại, bằng hành động lật đổ, hoặc hơn nữa là một cuộc khởi nghĩa nhân dân rộng lớn. Với sự giúp đỡ và cổ vũ thích hợp, họ sẽ xóa bỏ chính quyền thối nát và không hợp pháp đó. Nhân dân miền Nam sẽ “quét sạch” mọi gián điệp, thổ phỉ và tay sai của đế quốc Mỹ vào “sọt rác của lịch sử”. Dưới con mắt của người anh hùng Điện Biên Phủ, chế độ Diệm và những kẻ ủng hộ Diệm là một chế độ độc tài phát xít, áp bức và bóc lột dã man nhân dân, sử dụng mọi biện pháp tàn bạo để dập tắt phong trào yêu nước.
Khi khẳng định điều này, Võ Nguyên Giáp biết rõ Mỹ đã cung cấp hàng ngàn tấn vũ khí, thiết bị quân sự cho Việt Nam Cộng hòa và nếu có thể thì nên tránh đụng độ với Mỹ. Ông nghĩ rằng chiến thắng không thể nhanh chóng giành được và cũng như cuộc chiến tranh trước phải qua ba giai đoạn chiến tranh cách mạng: du kích chiến, vận động chiến và cuối cùng là tổng tiến công để kết thúc.
Tuy nhiên, xung quanh ông có rất nhiều cuộc thảo luận diễn ra hết sức sôi nổi. Miền Bắc có thể để miền Nam tồn tại dưới chế độ Diệm bao lâu nữa? Phải làm gì để hoàn thành sứ mệnh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước? Trả lời cho câu hỏi này là yêu cầu cần thiết đối với chính sách của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong 15 năm tiếp theo từ năm 1960 đến 1975.
Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt
- Tác giả : Ngô Văn Phú
- Danh mục : Lịch sử