Chiến thắng bằng mọi giá
Chương 10 “Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng”
Chương 10 “Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng”
Suốt cuối mùa hè năm 1946, dọc biên giới Việt Nam - Trung Quốc, các sự vụ rắc rối giữa quân lính Pháp và bộ đội Việt Minh liên tiếp xảy ra khiến cả hai đều bị thiệt hại. Ngày 6/8, đặc phái viên Pháp Jean Albert Emile Crépin, sau này sẽ thay thế Jean Sainteny làm Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Nam Kỳ và Bắc Trung Kỳ, đến thăm Võ Nguyên Giáp tại văn phòng của ông: “Nếu ông cứ giữ cách cư xử như thế”, Crépin cảnh cáo, “chắc chắn chiến tranh sẽ nổ ra.”
Trước sự đe dọa đó, đang ngồi ở bàn làm việc, Võ Nguyên Giáp vươn người về phía trước và trả lời Crépin với một giọng chậm rãi và thận trọng. Sau khi nhắc lại vụ chạm súng giữa hai bên và nỗ lực mới đây của Thierry d’Argenlieu lập ra các chính phủ tự trị riêng rẽ ở miền Bắc để chia cắt Việt Nam thành nhiều mảnh, Võ Nguyên Giáp kiên quyết nói tiếp: “Ông biết rất rõ điều gì đằng sau các vụ chạm súng đó và quân Pháp phải chịu trách nhiệm về các sự kiện trên. Chúng tôi đã nhiều lần chứng tỏ thiện chí của mình. Nếu các ông muốn hòa bình thì sẽ có hòa bình. Còn nếu không, muốn chiến tranh thì sẽ có chiến tranh.”
Chính phủ Paris nổi giận, phái đến Đông Dương đang nóng bỏng một quân nhân nữa, thiếu tướng Louis Constant Morlière với hy vọng ông ta sẽ tìm cách lập lại sự kiểm soát của Pháp. Võ Nguyên Giáp gặp Morlière ở sân bay và giới thiệu mình là đại biểu của chính phủ Việt Nam ra đón. Morlière nói với Võ Nguyên Giáp rằng ông “thông cảm với sự nghiệp giải phóng của Việt Nam” và tỏ ý hy vọng các cuộc thương lượng ở Fontainebleau sẽ đi đến kết quả. Võ Nguyên Giáp mỉm cười trước con người tỏ ra có thiện cảm với nhân dân Việt Nam. Trong một cuộc trò chuyện với Võ Nguyên Giáp, Morlière lại một lần nữa nhắc lại những lời đề cao người Việt Nam. Nhưng khi Võ Nguyên Giáp hỏi cụ thể hơn, thì ông chỉ nói đến một trong những người phục vụ ông là một anh đầu bếp nấu ăn rất ngon và thật thà. Cách trả lời của Morlière khiến Võ Nguyên Giáp chỉ ngồi im và sau này nói về Morlière là “vị tướng của các tối hậu thư.”
Chính phủ Việt Minh tổ chức rất trọng thể và rầm rộ lễ kỉ niệm một năm ngày độc lập (2/9/1946). Cờ, hoa, ảnh chân dung, cổng chào kết lá, đèn màu trang trí xuất hiện khắp nơi. Sáng hôm đó, vào hồi 7 giờ sáng, còi thành phố vang lên và mọi người đang đi phố hay trong nhà đều đứng dậy hướng về Nam, giữ một phút im lặng mặc niệm những người đã hy sinh trong chiến đấu chống Pháp ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Cuộc diễu binh long trọng quanh hồ Hoàn Kiếm. Nhiều quan khách, đại biểu nước ngoài ngồi chật lễ đài: Anh, Mỹ, Ả Rập, Trung Hoa và Pháp. Một trong các đoàn quân được trang bị súng ống đầy đủ, nai nịt gọn gàng, trong bộ quân phục màu xanh, đội mũ calô có gắn huy hiệu cờ đỏ sao vàng, chân đi giày da.
Sau đó là đoàn diễu hành đông đến nửa triệu người xếp hàng dài 5 km bước qua lễ đài, thỉnh thoảng ở giữa lại có các xe hoa mang chân dung Hồ Chí Minh đứng nói trước micrô trong ngày đọc bản Tuyên ngôn độc lập một năm trước đó. Buổi tối, thành phố sáng trưng bởi hàng vạn ngọn đèn treo ở trước cửa nhà.
Mấy ngày sau, ngày 18/9 có thông báo Hồ Chí Minh đi trên tàu Pháp Dumont d’Urville rời cảng Toulon đang trên đường về Việt Nam. Trong thời gian Hồ Chí Minh vắng mặt, Võ Nguyên Giáp thay mặt Hồ Chí Minh đứng đầu chính phủ. Võ Nguyên Giáp đã chứng tỏ mình là người có khả năng về chính trị và là người có thể tin cậy được. Hồ Chí Minh cảm ơn và đã đưa Võ Nguyên Giáp lên vị trí số ba trong hệ thống cấp bậc cao nhất của chính phủ sau Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Tàu Dumont d’Urville qua kênh Suez rồi biển Đỏ, suốt một tháng trời Hồ Chí Minh mới về nước.
Cũng trong tháng 10, Quốc hội họp nhanh chóng thông qua Hiến pháp mới quyết định thể chế cộng hòa dân chủ của nước Việt Nam. Quốc hội cũng thông qua một Ban Thường trực để điều khiển công việc của Quốc hội, thông qua các dự án luật của chính phủ, tuyên bố chiến tranh và triệu tập các phiên họp toàn thể. Sau khi đã thông qua quyết định, cuộc họp giải tán ngày 14/11/1946 – và chỉ họp lại vào tháng 12/1953! Bắt đầu từ lúc này, chính phủ hoàn toàn nằm dưới quyền điều hành của Hồ Chí Minh và các thành viên xung quanh ông. Hồ Chí Minh tổ chức lại chính phủ. Từ khi các phe cánh đối lập là Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội bị loại, Hồ Chí Minh chỉ định các thành viên Việt Minh hoặc có cảm tình với Việt Minh đứng đầu các bộ trong chính phủ. Năm trong số mười ghế trong nội các được giao cho các đảng viên cộng sản. Những ghế khác thì giao cho đại biểu của các đảng phái do Việt Minh kiểm soát hoặc người ngoài đảng nhưng trung thành với đảng. Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởng Quốc phòng. Người ta không nghĩ đến việc ông trở lại nắm Bộ Nội vụ. Lúc này công việc quân sự rõ ràng được đặt lên trên an ninh trong nước. Đó là một điều hiển nhiên không thể nào khác trong suốt mùa thu và đầu mùa đông năm 1946.
Hải Phòng, thành phố cảng là đốm lửa đưa sự bất hòa Pháp - Việt thành một đám cháy lớn và là nguồn gốc của chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Việt Minh cũng như Pháp đều cần đến cảng Hải Phòng. Võ Nguyên Giáp cần Hải Phòng để nhập vũ khí từ Trung Quốc về, Pháp thì sử dụng Hải Phòng để neo tàu đổ bộ quân tiếp viện và vũ khí tăng cường đến. Pháp càng nhấn mạnh sự có mặt của mình thì càng muốn giành lại sự kiểm soát từ tay Việt Minh các thiết chế địa phương ở Hải Phòng. Người ta đã thấy trước Việt Minh quyết tâm chống lại và không phải lúc nào cũng chiếm lợi thế.
Các nhà cầm quyền Pháp nhìn Việt Minh đảm nhiệm việc thu thuế hải quan với con mắt ác cảm, họ ra lệnh chấm dứt. Theo lời Võ Nguyên Giáp, trong đêm 29/8, xe tăng, xe bọc thép và lính Pháp bao vây nhà Bưu điện, Sở Cảnh sát và Sở Hải quan, đuổi hết các nhân viên Việt Minh. Trong lúc lính Pháp tịch thu hàng hóa ở cảng thì bộ đội Việt Minh đến. Hai bên nổ súng. Việt Minh không kiểm soát được tình hình. Chỉ hai tuần sau lính Pháp mới chịu rút.
Chỉ có sự can thiệp cá nhân của tướng Morlière và của Võ Nguyên Giáp mới ngăn được các vụ đụng độ lẻ tẻ ấy ngày càng xấu thêm. Các nhà cầm quyền Pháp hạ tối hậu thư: kể từ ngày 15/10, Việt Minh phải giao toàn bộ công việc kiểm soát hải quan ở Hải Phòng cho Pháp. Bộ Ngoại giao Việt Minh gửi công hàm đến Paris phản kháng nhưng không có kết quả.
Bầu không khí căng thẳng bao trùm thành phố khi ngày 15/10 qua đi, Việt Minh không chịu khuất phục trước sự áp đặt của Pháp. Rồi ngày 20/11, Pháp khám xét và tịch thu một thuyền buồm của người Hoa mà họ nghi là chuyên chở vũ khí cho Việt Minh. Bộ đội Việt Nam liền bắt ba lính Pháp và xây dựng chiến lũy trong khu vực họ chốt giữ ở ngoại ô Hải Phòng. Nội thành Hải Phòng lúc đó hầu như đều nằm trong tay Pháp. Nhiều đơn vị lính Pháp tiến ra ngoại ô, phá hủy các chiến lũy mà Việt Minh dựng lên một cách vội vã. Các cuộc giao chiến kịch liệt liên tiếp xảy ra.
Võ Nguyên Giáp và Morlière hội đàm với nhau ở Hà Nội, đồng ý tuyên bố lệnh ngừng bắn sẽ bắt đầu có hiệu lực vào 5 giờ chiều hôm sau. Bộ Tổng chỉ huy của Pháp tại Sài Gòn điện ra không chấp nhận ngừng bắn và được sự đồng ý của Cao ủy Thierry d’Argenlieu và Thủ tướng Pháp Georges Bidault, hạ lệnh cho Việt Minh phải rút khỏi Hải Phòng trước 23/11, nghĩa là chỉ mấy tiếng đồng hồ sau đó. Khi Việt Minh từ chối, Pháp nã pháo vào thành phố. Việt Minh ước tính có khoảng 200.000 người bị thiệt mạng chủ yếu là thường dân; trong khi Pháp khẳng định là “chỉ có” 6.000 người chết.
Sau đó Pháp đưa tối hậu thư thứ hai. Họ đòi kiểm soát cả Hà Nội và con đường nối liền Hà Nội - Hải Phòng. Võ Nguyên Giáp biết rằng khó tránh khỏi cuộc xung đột. Ông ra lệnh tổng động viên cả nước: sinh viên, nông dân, chủ trang trại, thợ thuyền, trí thức, người già, người trẻ, đàn ông cũng như đàn bà tham gia các tổ chức yêu nước. Họ được trợ cấp đi dự các lớp huấn luyện, tổ chức canh gác trên đường phố và trên các cầu dẫn vào thành phố, ngăn cản Pháp đưa thêm quân vào thành phố hoặc thả dù bằng máy bay hoặc đường biển. Dân chúng quyên gạo ủng hộ bộ đội, tình nguyện làm cứu thương chăm sóc thương binh và người bị nạn. Người nào có nhiệm vụ của người ấy. Đảng viên quyên góp vàng và đồ trang sức quý gửi cho chính phủ để lấy tiền mua thêm vũ khí cần thiết.
Abbott Low Moffat, Vụ trưởng Vụ Đông Nam Á thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có mặt ở Việt Nam từ đầu tháng 12/1946. Những điện báo mà ông ta gửi về Washington không giúp gì việc tăng cường thiện cảm với Việt Minh. Đối với Mỹ, dù sao Việt Nam cũng chỉ là một điểm nhỏ trên thế giới đầy biến động. Sự chú ý của họ còn tập trung hướng về châu Âu và sự ngoan cố của Liên Xô đã khiến nhiều người Mỹ đòi hỏi chính phủ phải xem xét lại liên minh với Nga trong thời chiến tranh và thấy sự bành trường của chủ nghĩa cộng sản Nga ngày càng trở thành sự thật như ban ngày.
Tổng thống Harry S. Truman quan tâm đến sự lộn xộn ở châu Âu, không có bằng chứng nào cho thấy ông đã để mắt đến mấy lá thư mà Hồ Chí Minh gửi cho mình yêu cầu giúp đỡ trong cuộc đối đầu với Pháp. Hồ Chí Minh sẵn sàng quan hệ với Hoa Kỳ theo kiểu liên minh mà Mỹ duy trì với Philippines. Những thư đó đều không được trả lời. Hoa Kỳ phải lựa chọn giữa một bên là một quốc gia mới thành lập chẳng có ý nghĩ gì ở châu Á, một bên là nước Pháp được xem như nền tảng của liên minh phòng thủ mới. Sự lựa chọn được quyết định nhanh chóng. Cuối cùng chính phủ Mỹ tuyên bố tôn trọng ảnh hưởng của Pháp ở Đông Dương và đến tháng 10/1945 đã gọi về nước đoàn đại biểu Mỹ tại Hà Nội.
Một năm sau kể từ thời điểm đó, Abbott Low Moffat đến Hà Nội với tư cách là quan sát viên theo dõi những chuyện bất ngờ xảy ra trên sân khấu chính trị tại thủ đô của Việt Minh. Ông rất lúng túng vì sự hiểu biết hạn chế của mình về tình hình chính trị ở Việt Nam, dù ông đã gặp Võ Nguyên Giáp nhiều lần mà đầu tiên ông tưởng là một người bồi bàn. Moffat viết rằng “trong mười ngày, Morlière và Giáp […] đã gọi nhau bằng những cái tên khác nhau trên báo chí”. Các nhà cầm quyền Pháp đã miêu tả Võ Nguyên Giáp với Moffat như một người đứng đầu phái “cực đoan” và khi được gặp Võ Nguyên Giáp, Moffat nhận xét: “Cá nhân tôi không cảm thấy có chút cảm tình nào với Giáp […] mặc dù những người Pháp biết Giáp đều rất khâm phục trí thông minh và tài năng của Giáp […]. Giáp có vẻ mặt lạnh luôn luôn làm cho tôi chưng hửng. Dĩ nhiên đó là một người cộng sản được mọi người xác nhận”.
Đối với Moffat, Võ Nguyên Giáp là “hình ảnh của một nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản lý tưởng”. Moffat cho rằng người Pháp thường nói về Võ Nguyên Giáp là “con người cuồng tín nhưng rất có khả năng” và họ hoàn toàn đúng. Trong một cuộc trò chuyện, Võ Nguyên Giáp tỏ ra rất dứt khoát: Việt Minh không bao giờ nhận rút khỏi Hà Nội như người Pháp yêu cầu. Võ Nguyên Giáp khẳng định với Moffat rằng dù có xe tăng, máy bay và súng trường thì người Pháp cũng sẽ thất bại. Rồi ông thay đổi ý kiến bằng cách nói chữa lại một cách nhẹ nhàng: “Người Việt Nam có thể thua… nhưng dù sao Pháp cũng không thể thắng”. Nói xong hai người chia tay.
Trong nhiều năm Moffat là người Mỹ duy nhất được gặp Võ Nguyên Giáp và đó là người duy nhất có thể ảnh hưởng mạnh đến Chính phủ Mỹ để Mỹ đưa ra đường lối cư xử khác có thể làm thay đổi chiều hướng các sự việc sau này, giúp Mỹ tránh được các khoản chi tiêu khổng lồ cho chiến tranh và tránh cho xã hội Mỹ khỏi bị những đổ vỡ sau này. Những đầu óc đa nghi có thể cười khẩy trước lập luận này, vì họ cho rằng Moffat không có vai trò quan trọng. Ông không phải là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, mà chỉ là cấp dưới đứng đầu một vụ lúc đó chẳng quan trọng gì trong Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Ông ta có thể làm được gì? Ngay cả khi ông ta tin rằng phải hành động thế này, thế khác. Chúng ta sẽ không bao giờ được biết rõ.
Biết rằng người Pháp muốn lôi kéo mình vào cuộc giao chiến, Võ Nguyên Giáp đã chủ tâm giữ thái độ ôn hòa và kiềm chế. Để tránh khiêu khích, ông ra lệnh phần lớn các đơn vị rút khỏi Hà Nội, không để bị lôi kéo vào các vụ chạm súng không kiểm soát được, tránh xa khỏi tầm ngắm của quân Pháp, phân tán về các tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang thuộc khu giải phóng cũ, ở đó lực lượng Việt Minh hoàn toàn làm chủ từ những tháng trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Các lực lượng tự vệ đường phố nay nắm quyền kiểm soát an ninh trong nội thành, xây dựng các chiến lũy và chuẩn bị đương đầu với lính Pháp. Những vụ đụng độ nhỏ vẫn xảy ra lẻ tẻ và lính Pháp tiến hành trả đũa tàn sát gọn cả một khu phố. Hồ Chí Minh yêu cầu Paris can thiệp nhưng không có hồi âm.
Ngày 19/12, bộ chỉ huy Pháp yêu cầu Võ Nguyên Giáp ra lệnh tước vũ khí tự vệ và lực lượng địa phương. Thay vì trả lời, Võ Nguyên Giáp ra lệnh lập thêm nhiều chiến lũy trên đường phố và chuẩn bị một kế hoạch tác chiến trên cùng các vị trí đóng quân của Pháp. Chiều hôm đó, ông gặp tướng Morlière để cố gắng dàn xếp một cơ hội cuối cùng. Morlière không đề nghị gì thêm. Đó là lần cuối cùng hai người gặp nhau.
6 giờ 30 phút chiều, Morlière nhận được các nguồn tin tình báo cho biết Võ Nguyên Giáp đang chuẩn bị một cuộc tiến công rộng khắp vào các vị trí Pháp và ra lệnh bộ đội chuẩn bị sẵn sàng. Các trại lính Pháp đều ở tư thế đề phòng và đến 8 giờ tối lực lượng của Pháp đồng loạt mở cuộc tiến công. Yếu tố bất ngờ không còn, lực lượng của Võ Nguyên Giáp bị thiệt hại nặng. Vào lúc 9 giờ 30 phút, Võ Nguyên Giáp kêu gọi toàn quân toàn dân cầm vũ khí đứng lên. Sáng sớm hôm sau, ngày 20/12, nhân danh Chính phủ và thay mặt Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh kêu gọi “toàn dân đứng lên đánh địch, cứu nước, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng và bất cứ giá nào cũng không quay lại chế độ nô lệ.”
Được sự ủng hộ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Võ Nguyên Giáp yêu cầu lực lượng vũ trang và dân chúng Hà Nội giữ vững vị trí chiến đấu trong thành phố ít ra là nửa tháng, thời gian đủ để chuyển cả nước sang thời chiến, sơ tán kho tàng và các cơ quan chính phủ về an toàn khu ở sâu trong rừng núi phía bắc. Công việc này kể ra đã làm hai tháng nay rồi. Đến ngày 17/2/1947, những người lính cuối cùng lặng lẽ vượt vòng vây ở Hà Nội đến các vị trí an toàn. Những người đã liên tục chiến đấu suốt mấy tuần liền bên trong thành phố không bị cô lập trong cuộc đấu tranh. Họ được sự cổ vũ và phối hợp chặt chẽ của các mặt trận ở bên ngoài.
Khắp nơi ở miền Bắc, mỗi khi các đơn vị lính Pháp vào khu vực nào thì ở đó các thôn xóm địa phương đều nổi dậy đánh trả. Võ Nguyên Giáp yên tâm và phấn khởi trước tinh thần yêu nước, đấu tranh của nhân dân. Dân làng đào hầm, cài chông bẫy đánh đuổi những tên lính đi lẻ. Một số thôn xóm biến thành pháo đài cầm cự với giặc. Với tinh thần yêu nước, dân chúng lấy tên các anh hùng dân tộc để đặt tên cho các chiến dịch dù hãy còn khiêm tốn của họ: Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Phan Đình Phùng, Lý Thường Kiệt, Quang Trung, v.v…
Võ Nguyên Giáp khẳng định “có nhiều sự kiện anh dũng diễn ra trong những ngày đầu kháng chiến”. Ông nói: “Bộ đội ta đã chiến đấu cực kỳ dũng cảm. Tinh thần chiến đấu ngoan cường thể hiện tính cách bất khuất của một dân tộc nhỏ yếu quyết tâm chiến đấu chống một nước đế quốc hùng mạnh.” Những đêm thức trắng bàn bạc lên kế hoạch tác chiến đã đem lại kết quả. Các đơn vị bộ đội của Võ Nguyên Giáp đã ghìm chân quân địch đủ để hậu phương hoàn thành việc chuẩn bị và phát triển các nguồn lực.
Tuy vậy, không ai có thể ngăn được cuộc tiến công ồ ạt của quân Pháp như nước thủy triều đang dâng lên. Đến cuối tháng 3/1947, Pháp kiểm soát tất cả các thành phố lớn ven biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ cũng như các vùng thành thị ở Nam Bộ. Pháp chiếm đóng Hà Nội cũng như nhiều làng mạc khác và làm chủ được vùng châu thổ sông Hồng. Các trung tâm giao thông và đường sá nối liền đều nằm trong tay quân Pháp. Quân đội thuộc địa cố tìm cách trở lại tình hình giống như những năm 1930, chỉ một nhúm thực dân cũng kiểm soát được hàng triệu người dân Việt Nam từ điểm cực nam Cà Mau đến biên giới Việt - Trung.
Võ Nguyên Giáp và Đảng Cộng sản đã chuẩn bị khá tốt trong việc rút lên Việt Bắc. Trong vùng rừng núi đó, theo cách nói của Võ Nguyên Giáp rừng cây phủ kín như “nhà kính”, họ được che chở để chống lại sự đàn áp và các cuộc tiến công của Pháp. Địa hình hiểm trở, đường đi lối lại khó khăn, khí hậu thất thường, Việt Bắc quả là miền đất “không mến khách” đối với các đoàn quân Pháp từ xa tới. Núi cao từ 600 m đến 1.200 m, nhiều hang động, mưa trên 200 mm một năm và mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 11. Việt Minh biết rằng những hoạt động của mình ở đây sẽ được rừng cây, sương mù và mưa rừng che phủ. Võ Nguyên Giáp cảm thấy nhẹ nhõm, biết rằng do khó khăn về địa hình và thời tiết kéo dài suốt cả năm, xe bọc thép của Pháp sẽ không thể vào được trong mùa ẩm thấp. Khi trở lại Việt Bắc đúng vào trước mùa mưa năm 1947, Võ Nguyên Giáp sẽ có ít nhất là sáu tháng an toàn để tổ chức lại lực lượng kháng chiến.
Căn cứ địa Việt Bắc cách Hà Nội khoảng 130 cây số về phía Bắc và đại thể là một khối tròn với bán kính khoảng 80 cây số. Những đỉnh núi cao và thung lũng sâu chia địa hình Việt Bắc ra nhiều ngăn. Ít đường cái qua lại, chỉ có các đường mòn nối liền các thung lũng đi vào các triền núi. Phương tiện chuyên chở không có gì khác ngoài xe bò. Ít đường cái đã đành, đến cầu cống vượt qua sông suối thác ghềnh càng ít hơn. Mặc dù có nhiều sông suối nhưng chỉ có thể đi lại được bằng thuyền nhỏ là sông Lô và nhánh của nó là sông Gâm.
Người Pháp có tiến sát đến gần Việt Bắc nhưng không thể vào được. Con đường số 2 vòng qua phía tây nơi trú ẩn của Võ Nguyên Giáp bằng đường lên Tuyên Quang rồi dẫn đến Hà Giang, gần biên giới với Vân Nam của Trung Quốc. Con đường số 3 trải dài từ Thái Nguyên đi Cao Bằng qua Bắc Cạn và gần như suốt chiều dài con đường chỉ là đường mòn cho xe bò. Các đoạn cắt đường số 3 qua các vùng lộ thiên rất thuận lợi có đường bắn chúc từ trên cao xuống hẳn không có gì gây hứng thú cho các nhà chiến lược Pháp. Con đường cuối cùng là con đường số 4 chạy dọc theo miền đông bắc căn cứ địa Việt Minh nối liền Lạng Sơn, Thất Khê, Đông Khê và Cao Bằng. Mục tiêu của Võ Nguyên Giáp rất rõ ràng: bảo vệ các con đường đó, căn cứ của ông thêm chắc chắn. Điều này cho phép ông có thời gian để thiết lập các khu vực quân sự hóa và tổ chức đánh trả cuộc tiến công của đối phương.
Còn nhiều việc phải làm trước khi có thể đánh địch. Ông quan sát một cách hài lòng những người lính của ông nấp sau các bức tường đá hoa cương, dưới tán cây rừng, luồn rừng đến tận khu vực an toàn. Với tinh thần làm việc không biết mệt mỏi, các đơn vị bộ đội của Võ Nguyên Giáp xây dựng các công binh xưởng, các bãi luyện quân, các doanh trại, các kho vũ khí, các trường học. Tại một trong những trường học đó, bà Đặng Bích Hà, người vợ kế của Võ Nguyên Giáp sau này, dạy sử Việt Nam cho sinh viên. Võ Nguyên Giáp đặt bản doanh tham mưu trong một căn lều.
Trong khoảng thời gian bấp bênh đó, Võ Nguyên Giáp hiểu rõ giá trị của mối quan hệ với dân chúng địa phương. “Không có họ”, như một lần ông đã viết, “chúng ta không có một tin tức nào […]. Chúng ta sẽ không thể giữ được bí mật, không thể tổ chức các hành động nhanh chóng. Nhân dân còn hiến kế, làm người dẫn đường. Họ làm liên lạc cho chúng ta, che giấu chúng ta, che chở những hoạt động của chúng ta, nuôi nấng và chăm sóc thương binh của chúng ta”.
Hồ Chí Minh còn ý thức hơn cả Võ Nguyên Giáp về tầm quan trọng của sự ủng hộ từ người dân. Ông đã củng cố phong trào Việt Minh trong căn cứ địa Pắc Bó, đưa các phần tử “quốc gia” không cộng sản vào chính phủ. Ông tỏ rõ là một người có khả năng thuyết phục người khác hơn là một người chỉ rao giảng giáo điều. Ngay Bảo Đại cũng tỏ rõ có thiện cảm với cuộc đấu tranh chống Pháp của Hồ Chí Minh. Tháng 7/1947, Hồ Chí Minh cho lập nội các của chính phủ mới, trong đó những người “quốc gia” có nhiều đại biểu hơn nhưng không có nhiều quyền lực hơn. Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng không giữ ghế Bộ trưởng nào nhưng Võ Nguyên Giáp vẫn phụ trách công tác quân sự của Việt Minh.
Do mưa xuân và không có kế hoạch tác chiến nào nên tướng Valluy đành hoãn giao chiến. Lực lượng của Võ Nguyên Giáp có thời gian nghỉ ngơi cho đến cuối mùa thu để chuẩn bị. Võ Nguyên Giáp cũng như Valluy đều để mắt nhìn về phía Trung Quốc. Chính phủ Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch đang tan rã. Nếu Đảng Cộng sản của Mao Trạch Đông giành được quyền kiểm soát đất nước, cả hai người, Võ Nguyên Giáp và Valluy, đều nghĩ rằng điều đó sẽ cho Việt Minh một căn cứ địa để làm nơi chứa vũ khí, lương thực và huấn luyện bộ đội khá an toàn.
Đầu thu 1947, tướng Valluy cho rằng đã đến lúc tiến công Việt Minh. Một cuộc nổi dậy mới đây ở Madagascar có nguy cơ rút đi 15.000 quân trong quân số quân viễn chinh hiện có của ông để gửi đi Madagascar và ông không thể để hao hụt sức chiến đấu của quân đội viễn chinh. Tại Paris các nghị sĩ ngày càng tỏ ra dè dặt bỏ phiếu thông qua khoản tài trợ cho cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Pháp cần giành thắng lợi trong trận đầu giao chiến với Việt Minh để lấy được uy tín. Tháng 9, Valluy và bộ tham mưu Pháp bắt đầu đặt kế hoạch cho một cuộc tiến công lớn đánh vào căn cứ Việt Minh ở Việt Bắc. Cuộc tiến công được mang tên Cuộc hành quân Lea.
Valluy biết rằng nếu đánh thẳng vào cơ quan đầu não của Việt Minh, giết hay bắt sống được những người lãnh đạo Việt Minh thì việc chiếm căn cứ địa của Việt Minh không còn là vấn đề lớn nữa. Lại cần phải quay về Việt Bắc! Chỉ có một vài con đường dẫn vào bên trong khu căn cứ. Các đường thuộc địa số 2, 3 và 4, con đường thủy qua sông Lô rồi rẽ sang sông Gâm. Việt Minh chỉ cần khóa chặt mấy con đường đó, kiểm soát một số lối vào là có thể chặn đứng mọi sự đột nhập của quân Pháp. Ngay cả ở những vùng nông thôn, quân Pháp cho là đã kiểm soát được vẫn có những hoạt động của Việt Minh làm chúng điên đảo. Chúng có thể tuần tiễu được, có thể giữ các thành phố, đường sá cầu cống, đường sắt, đồn lũy, nhưng bất cứ nơi nào chúng không có mặt, Việt Minh đều làm chủ. Pháp không thể vừa chiếm đóng các vị trí chiến lược chủ yếu lại vừa đi tìm và diệt lực lượng Việt Minh. Một đơn vị quân sự Pháp có thể đóng an toàn trong một làng ban ngày nhưng ban đêm trong bóng tối, chúng có thể bị tiêu diệt vì đạn súng cối của Việt Minh. Lính Pháp cảm thấy bị hụt hẫng! Nếu chúng chỉ có thể kiểm soát nửa vùng ban ngày nhưng tối đến chúng không kiểm soát nổi một phần tư thì liệu chúng có chiếm được căn cứ địa Việt Bắc và xóa sổ ban lãnh đạo Việt Minh ở đó?
Cơ quan tình báo của Valluy đã xác định được vị trí cơ quan đầu não của Việt Minh ở Việt Bắc. Đó là thị xã Bắc Cạn nghèo khổ vắt ngang đường số 3 ở phía bắc Thái Nguyên. Valluy chuẩn bị kế hoạch cho Cuộc hành quân Lea. Đây là cuộc tiến công sử dụng kết hợp nhiều loại vũ khí khác nhau để bao vây thị xã bằng hai gọng kìm. Một gọng kìm theo đường thủy tiến theo sông Lô rồi rẽ sang sông Gâm, trong khi một gọng kìm khác chặn con đường thuộc địa số 4. Phần lớn con đường này như một nhát chém không sâu lắm vào vách đá vôi. Cùng một lúc khi các lực lượng ở hai gọng kìm rời điểm xuất phát thì lực lượng lính dù sẽ nhảy xuống vùng trung tâm Việt Minh. Quân dù sẽ ghìm lực lượng Việt Minh tại chỗ cho đến khi nào họ nhận được tăng viện từ hai gọng kìm tới để tập trung tiêu diệt gọn ban lãnh đạo Việt Minh.
Cánh phía bắc gồm các đơn vị bộ binh, xe bọc thép và pháo binh, mỗi binh chủng ba tiểu đoàn phối hợp. Lực lượng này phải đi nhanh quãng đường từ Lạng Sơn đến Cao Bằng dài 130 km về phía tây bắc rồi tạt sang phía tây cho tới Nguyên Bình, sau đó đi tiếp 60 km dọc đường số 3 để tới Bắc Cạn. Tuy biết cuộc hành quân sẽ khó khăn nhưng Valluy vẫn ra lệnh tiến quân. Hình như ông ta quên rằng cuộc hành quân bao giờ cũng chỉ đem lại kết quả nếu tuân theo một lời dạy đã được thử thách là nguyên tắc đơn giản. Kế hoạch Lea hiển nhiên bỏ xa nguyên tắc này.
Lực lượng hải quân chở ba tiểu đoàn của gọng kìm phía nam bằng cách ngược sông Lô rồi rẽ qua sông Gâm, tiếp tục đi ngược lại cho đến khi nào mắc cạn hoặc không vượt qua được thác ghềnh. Đến lúc đó bộ binh sẽ lên bờ tiếp tục tiến theo đường thuộc địa số 3 đến Bắc Cạn.
Valluy chỉ có một số quân hạn chế tham gia cuộc hành binh Lea: Một tiểu đoàn công binh trinh sát mìn, hai tiểu đoàn dù, sáu tiểu đoàn bộ binh, ba tiểu đoàn xe bọc thép và phi đội số 4 của không quân. Như vậy, 15.000 quân sẽ khởi hành tiến đánh 60.000 người hoạt động trong một khu vực rừng núi rộng 15.000 km2. Điều này khiến người ta nghĩ dường như Valluy đang đọc bản Kế hoạch XVII được xây dựng trước năm 1914 để bảo vệ nước Pháp chống lại cuộc tiến công của Đức: “Tinh thần quân Pháp rất cao, không thể bị đánh bại”(1).
Valluy không đánh giá hết những khó khăn trong cuộc hành quân vào vùng rừng núi Đông Nam Á và ông bị cầm tù trong lời hứa phải đè bẹp cuộc kháng chiến Việt Nam trong vòng 3 tháng. Ông không đánh giá đúng đối thủ, đặc biệt là tài chỉ huy khôn khéo của vị tướng lĩnh mà ông phải đương đầu. Binh sĩ của Valluy phải hành quân trên một tuyến đường rất dài đồng thời phải bao vây một khu vực quá rộng, không tài nào khép kín được. Còn Võ Nguyên Giáp thì tự do di chuyển lực lượng từ vùng này sang vùng khác và đều gần căn cứ tiếp tế của mình. Vả lại, làm sao những xe bọc thép, pháo binh và bộ binh được chuyên chở bằng xe tải lại có thể đi lại trên một địa hình không có đường cái thích hợp với loại xe có bánh lốp hoặc bánh xích, lại có nhiều sông ngòi mà chỉ có vài cái cầu khập khiễng? Trong nhiều trường hợp người ta đã thấy kế hoạch của Valluy là liều mạng, chứa nhiều khả năng thất bại ngay từ đầu.
Cuộc hành binh Lea bắt đầu từ sáng ngày 7/10/1947 với 1.137 quân dù nhảy xuống Bắc Cạn, Chợ Đồn và Chợ Mới. Cùng lúc gọng kìm phía bắc cũng bắt đầu xuất phát với xe bọc thép, bộ binh, pháo binh, cấp tốc hành quân để kịp tiếp ứng quân dù. Đối phương đã không bỏ lỡ thời gian để làm chậm cuộc tiến quân của gọng kìm phía bắc trên đường số 4, trong khi đó gọng kìm phía nam người ta không biết tại sao hai ngày sau vẫn chưa bắt đầu ngược sông Lô. Tuy nhiên, diễn biến chiến sự trong mấy ngày đầu cũng không đến nỗi tồi. Quân dù nhanh chóng bao vây Bắc Cạn, lùng sục khu vực trung tâm của Việt Minh và chỉ một chút nữa là bắt được Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp(2). Hai người đã nhanh chóng và kịp thời di chuyển đến nơi an toàn. Lính Pháp còn tịch thu được giấy tờ, thư từ mà Hồ Chí Minh bỏ lại trên bàn làm việc. Vòng vây khá chặt, đến mức họ không tìm được khe hở nào để vượt ra ngoài. Vì vậy, Võ Nguyên Giáp đưa Hồ Chí Minh đến một hố cá nhân vừa mới đào trong rừng và phủ bằng lá còn tươi nguyên.
Họ ở dưới hố trong nhiều giờ, trong lúc lính Pháp lùng sục ở trên chỉ cách đó vài mét. Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc kháng chiến, còn Võ Nguyên Giáp là người không ai có thể thay thế được trong thời kỳ đó, là người chỉ huy quân sự của Việt Minh. Người ta nói rằng nếu Pháp chỉ kiên trì thêm chút nữa là có thể thay đổi cục diện của lịch sử. Rút cục tiếng giày đinh xa dần, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp cuối cùng đã luồn rừng và đi thoát về nơi an toàn.
Trong khoảng thời gian một ngày, Võ Nguyên Giáp chỉ đạo cuộc phòng thủ khu căn cứ chọn phương án tập trung quân sự áp đảo đánh quân nhảy dù trước. Chiều hướng trận đánh phát triển bất lợi cho quân Pháp. Bị các đơn vị Việt Minh đông hơn bao vây, quân Pháp nhanh chóng rơi vào thế tuyệt vọng. Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho bộ đội chặt gọng kìm phía nam đồng thời đánh mạnh gọng kìm phía bắc, khiến chúng tiến quân rất chậm và vất vả.
Công binh Việt Minh hạ cây chắn ngang đường, phá hủy cầu cống, băm nát đường sá, chôn mìn đắp ụ cản các cuộc phục kích, làm tê liệt nhiều đoàn xe cơ giới và xe bọc thép của Pháp. Bộ đội Việt Minh còn nấp sau các hốc đá, bụi cây bắn tỉa chia cắt các đội hình, bao vây, tiêu diệt từng toán quân đi lẻ của Pháp như ở bên kia Na Sầm, qua đèo Dứa, Lũng Phầy gần Đông Khê, đèo Tunnel (Đường hầm) đến tận Cao Bằng, rồi ở phía tây về mạn Nguyên Bình, phía nam đến tận Phủ Thông, tất cả trên 220 km, chỗ nào cũng có phục kích. Võ Nguyên Giáp còn ra lệnh cho bộ đội chặn địch ở Phủ Thông, cách Bắc Cạn về phía bắc 16 km. Mãi đến ngày 16/10/1947, một trung đoàn bộ binh cơ giới Maroc mới tiếp ứng được với quân dù của Valluy ở Bắc Cạn.
Gọng kìm phía nam nhờ đoàn tàu chở quân ngược sông Lô và rẽ sang sông Gâm rồi lên bộ cũng bị dậm chân tại chỗ ở nhiều nơi, mãi đến ngày 19/10 mới gặp được quân dù và quân gọng kìm phía bắc đến cứu. Hai gọng kìm dồn làm một, quân Pháp rút khỏi Việt Bắc. Mặc dù Valluy không dám tuyên bố hủy bỏ cuộc hành binh Lea trước ngày 8/11 nhưng mọi cố gắng đều là công dã tràng, không đạt được một mục tiêu nào. Người Pháp rút ra từ cuộc phiêu lưu nhiều bài học quý báu nhưng Võ Nguyên Giáp còn học được nhiều hơn thế. Võ Nguyên Giáp sẽ hoàn chỉnh việc phòng thủ cơ quan đầu não, triệt để giữ bí mật, luôn luôn di chuyển để không bao giờ bị máy bay địch bắn phá trong cuộc kháng chiến chống Pháp và sau này trong chiến tranh chống Mỹ, nhờ có hệ thống pháo phòng không dày đặc lúc đầu và về sau là các giàn tên lửa nhiều tầng mà Võ Nguyên Giáp đã che được mắt địch.
Cuối tháng 11/1947, tướng Valluy đã mở cuộc tiến công tiếp theo là cuộc hành binh mang mật danh Ceinture (Vành đai). Hai thành phố quan trọng nhất ở ranh giới phía nam căn cứ địa Việt Bắc là Tuyên Quang và Thái Nguyên bị Việt Minh chiếm đóng và Valluy hy vọng sẽ tiêu diệt hết quân Việt Minh đồn trú ở đây. Lực lượng được ném vào cuộc hành binh này đông không kém kế hoạch Lea nhưng lần này Valluy tập trung quân với mật độ đông hơn vì vùng mục tiêu thu hẹp, không trải rộng như cuộc tiến công trước. Lần này Võ Nguyên Giáp rút lực lượng ra vòng ngoài tránh giao chiến trực diện. Mặc dù Valluy khoe tịch thu được số lượng lớn dụng cụ và vật liệu chiến tranh nhưng thật sự cuộc tiến công của Valluy không gây thiệt hại nhiều cho quân đội của Võ Nguyên Giáp. Ngày 22/12, Pháp rút khỏi hai thành phố trên, lặng lẽ kết thúc cuộc hành binh Ceinture, đó cũng là kỷ niệm lần thứ ba ngày thành lập Việt Nam Truyên truyền Giải phóng quân của Võ Nguyên Giáp. Ít lâu sau bộ đội Việt Minh lại tập trung trở về khu vực cũ trong khu căn cứ.
Valluy cố an ủi bằng tuyên bố cuối năm 1947 rằng đã tiêu diệt được 9.500 quân Việt Minh. Chắc chắn con số đó đã được thổi phồng vì theo cách tính thông thường, ba người bị thương có một người chết, thì chắc hẳn quân đội của Võ Nguyên Giáp đã thiệt hại khoảng 30.000 người, tức là một nửa số quân của ông. Khó có thể tin quân lính của Valluy đã có được chiến công như vậy!
Tiếp theo cuộc tiến công quy mô căn cứ địa Việt Bắc, Valluy ra lệnh cho quân lính chiếm đóng đồng bằng sông Hồng và vùng ven biển từ Hải Phòng đến biên giới Đông Bắc, ngoài ra Pháp còn rải quân đóng nhiều đồn bốt dọc đường số 4 từ Lạng Sơn đến Cao Bằng và chốt ở giữa hai vị trí tiền tiêu, một là thị xã Bắc Cạn, hai là thị xã miền núi Hà Giang, cách thị xã Cao Bằng 128 cây số về phía tây và nằm trong thung lũng sông Gâm sát biên giới Trung Quốc. Giờ đây ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ vùng chiếm đóng của Pháp nhỏ hơn vùng tự do của Việt Minh! Bất bình trước tình hình đó, chính phủ Pháp triệu hồi Valluy và cử trung tướng Roger C. Blaizot thay thế. Chiến sự im ắng vì gió mùa, Blaizot cho rằng cho đến mùa thu 1948 không thể chủ động có một hoạt động quan trọng nào! Còn Võ Nguyên Giáp thì vui mừng. Đối thủ của ông là Valluy đã không thể nào thi thố tài năng đánh bại ông. Ông đã cho người Pháp biết rằng lực lượng của ông không cho phép họ dễ dàng giành chiến thắng. Ông chứng tỏ bản thân ông là một vị tướng. Ông cũng biết những tháng sắp tới sẽ là quãng thời gian thử thách cam go: khả năng chiến đấu của Việt Minh sẽ được tăng cường hay bị tiêu diệt! Bản thân ông và quân sĩ của ông sẽ rất bận bịu trong giai đoạn sắp tới.
1. Ý nói ở đây, kế hoạch tiến công Việt Bắc của Vally không thực tế (BT).
2. Ở đây tác giả đã nhầm. Thực tế, sáng ngày 7/10 Võ Nguyên Giáp còn đang ở Chiêm Hóa (Tuyên Quang). Hai người bị kẹt lại trong thị xã Bắc Cạn là Tổng bí thư Trường Chinh và Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái. Họ đã nấp trong hầm trú ẩn, đợi đến tối mới thoát được ra ngoài (BT).
Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt
- Tác giả : Ngô Văn Phú
- Danh mục : Lịch sử