Chiến thắng bằng mọi giá
Chương 21 “Người ta đã đặt tôi xuống mồ cả chục lần”
Chương 21 “Người ta đã đặt tôi xuống mồ cả chục lần”
Cuộc thương lượng kéo dài nhiều tháng ở Paris cuối cùng cũng kết thúc vào đầu năm 1973. Ngày 15/1, Tổng thống Richard Nixon hạ lệnh chấm dứt mọi hoạt động quân sự của Mỹ ở Bắc Việt Nam. Ngày 27/1, đại biểu bốn bên – Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam (tức là Mặt trận Dân tộc giải phóng) – ký hiệp định hòa bình. Hai bên tham chiến ngừng bắn tại chỗ, trao đổi tù binh, Hoa Kỳ phải rút hết nhân viên quân sự còn lại ra khỏi miền Nam trong vòng 60 ngày. Một hội đồng hòa hợp và hòa giải dân tộc sẽ giải quyết các vấn đề và tổ chức tuyển cử ở Nam Việt Nam. Không có hoạt động quân sự nước ngoài ở Lào và Campuchia. Một Ủy ban Kiểm soát và Giám sát Quốc tế gồm có Canada, Hungari, Ba Lan và Indonesia giám sát việc thi hành các điều khoản trong Hiệp định.
Cùng ngày chính phủ Hà Nội cũng thông báo sẽ treo cờ trong tám ngày trên toàn miền Bắc kể từ 7 giờ ngày 28/1 đến ngày 4/2 để ăn mừng kết thúc đàm phán hòa bình ở Paris. Trước đó mấy ngày, Võ Nguyên Giáp còn bác bỏ các tin đồn về sức khỏe của ông. Bấy giờ ngày 27/1, trên làn sóng điện gửi đồng bào toàn quốc, ông đề cập các vấn đề quan trọng hơn nhiều: “Hiệp định này là một thắng lợi lớn của Việt Nam… đối với nhân dân Việt Nam anh hùng… Chúng ta rất tự hào và hoàn toàn phấn khởi”.
Ngày Tết Nguyên đán, Võ Nguyên Giáp lại phát biểu trên đài phát thanh và bình luận về các điều khoản của hòa bình: “Lần đầu tiên từ 100 năm nay”, ông nói, “tất cả quân đội nước ngoài phải rời khỏi Việt Nam. Ở miền Nam đồng bào ta… có những vùng giải phóng rộng lớn. Mặt trận Dân tộc giải phóng đã thực hiện nhiều chiến công, tập hợp các tầng lớp xã hội và hết thảy mọi người yêu nước. Họ có Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam – người đại diện duy nhất chính đáng của nhân dân ta ở miền Nam. Hòa bình đã lập lại nhưng hòa bình chưa được củng cố”.
Hòa bình tất nhiên đã không được lập lại. Chỉ có hiệp định đã được ký kết. Các cuộc giao chiến ở Nam Việt Nam chưa chấm dứt. Hà Nội vẫn tăng số lượng người và hàng tiếp tế vào miền Nam dọc theo con đường mòn Hồ Chí Minh. Những người miền Bắc xây dựng một căn cứ cho máy bay MIG ở Khe Sanh và đưa tên lửa đất đối không SA-2 vào nam vĩ tuyến 17. Hơn nữa, quân ngụy Sài Gòn chưa bao giờ ngừng đánh phá các cuộc vận chuyển đó. Binh lính Cộng hòa vẫn tiến công Việt Cộng và những đơn vị chủ lực của Võ Nguyên Giáp ở Nam Việt Nam.
Trong tháng 5/1973, Võ Nguyên Giáp bày tỏ mối lo ngại và bất bình về những vi phạm hòa bình do Mỹ gây ra. Ông nói với phóng viên của các tờ báo Tiệp Khắc Obrana Lidu, Pravda và Cteka: “Hoa Kỳ đã ngừng việc gỡ mìn ở cảng Hải Phòng và lại tiến hành trở lại các chuyến bay trinh sát bắc vĩ tuyến 17, như vậy là vi phạm Hiệp định Paris”. Mặc dù Mỹ ngoan cố như vậy, nhưng Võ Nguyên Giáp vẫn hứa: “Bắc Việt Nam tiếp tục chủ trương hòa bình thống nhất đất nước, củng cố liên minh với các đảng anh em ở Lào và Campuchia”.
Ngày 9/7/1973, tướng Giáp xuất hiện trong một buổi lễ chào mừng Beqir Balluku – Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng Albania đến thăm chính thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người ta không còn gặp lại ông cho đến tháng 9, khi ông đến chào Fidel Castro đang thăm Việt Nam. Rồi người ta lại thấy vắng bóng ông trong tám tháng liền cho tới ngày 1/5/1974, ông tham dự lễ chào mừng Ngày quốc tế Lao động và chủ tọa cuộc mít tinh của Bộ Chính trị ở Ba Đình, Hà Nội. Khi ông bước vào hội trường, ông được các thành viên Chính phủ nhiệt liệt hoan nghênh.
Theo các nguồn tin có thể tin cậy, Võ Nguyên Giáp đi Liên Xô và trở lại Hà Nội một hai ngày sớm hơn dự định. Các nguồn tin đều nhất trí cho rằng ông có những vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe và khi trở về ông chưa hoàn toàn bình phục. Những người trông thấy ông đều nói ít nhất ông sút đến bảy cân, người gầy đi, khuôn mặt xanh xao. Những năm trước, ông bị đau yếu vì bệnh mắc phải trong những năm ở rừng núi nhưng ông đã coi thường, trở thành bệnh kinh niên như tiểu đường, viêm gan. Trong thời gian dài vắng mặt trong năm 1974, người ta đưa tin về sức khỏe của ông giảm sút nghiêm trọng.
Phải đợi đến ngày 31/5, các giới ngoại giao ở Hà Nội mới chính thức thừa nhận Võ Nguyên Giáp đã đi chữa bệnh ở Liên Xô. Tháng 7, tờ Frankfurter Allgemeine của Đức đưa ra một tin từ Hà Nội rằng Võ Nguyên Giáp vừa đi thăm Liên Xô và các nước Đông Âu trở về. Giọng điệu của tờ báo làm cho người ta hiểu rằng ông đã vắng mặt vì những “lý do ngoại giao” hơn là vì lý do sức khỏe.
Dù ông bị ốm nặng hay không điều đó không phải bàn cãi nhưng điều này mới là đặc biệt: Chính phủ và cả bản thân ông không bao giờ cho biết thực chất vấn đề của ông là gì? Tháng 10/1977, ông phát biểu trong một bài trả lời phỏng vấn của nữ nhà báo Pháp Berengère d’Aragon báo Paris Match. Võ Nguyên Giáp được biết rằng trước đây bà bị ốm nặng, ông thân ái hỏi thăm sức khỏe hiện nay của bà. Ông vừa cười vừa nói: “Đừng nghe lời các ông bác sĩ! Đó là những con chim báo điều chẳng lành. Tôi bị ung thư lá lách hoặc một cái gì tương tự, theo các báo và các thầy thuốc khoảng 30 năm nay rồi. Người ta đã đặt tôi xuống mồ ít nhất cả chục lần rồi!”
Mùa thu năm 1973, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương họp để xem xét lại một lần nữa đường lối chiến tranh ở miền Nam Việt Nam. Trong một thời gian, nhiều ủy viên đã hy vọng có thể chấm dứt cuộc xung đột kéo dài bằng đấu tranh chính trị. Người ta đã hy vọng sớm có được thắng lợi. Sau cuộc tiến công vào Lễ Phục sinh năm 1972, sức chiến đấu của ngụy quân đã giảm sút nghiêm trọng, tinh thần của dân chúng miền Nam ngày càng tỏ ra không mấy tin tưởng vào Chính phủ và quân đội Sài Gòn trước tình hình viện trợ Mỹ trên mọi lĩnh vực giảm sút một cách rõ rệt và liên tục. Tình hình của Chính quyền Sài Gòn càng thêm khó khăn khi lực lượng Bắc Việt chiếm những tiền đồn lẻ của ngụy quân và những căn cứ yểm trợ ở vùng phía tây cao nguyên miền Trung. Cách tiếp cận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là không có lý vào cuối năm 1972 và suốt năm 1973. Bắc Việt không thể mở cuộc tấn công quy mô lớn ở Nam Việt Nam do cả Võ Nguyên Giáp lẫn Trung ương Cục miền Nam không đủ sức đánh lớn trong tình hình hiện nay, còn ngụy quân Sài Gòn tuy suy yếu nhưng hình như vẫn đủ sức cầm cự được trước những cuộc tiến công quy mô nhỏ. Còn những người miền Bắc thì rất bực tức vì cuộc đấu tranh chính trị không tiến triển. Tháng 10/1973, Ban Chấp hành Trung ương đã ủng hộ một cách tiếp cận khác và thông qua một nghị quyết đòi mở cuộc tiến công quân sự chống chế độ Nguyễn Văn Thiệu và cuộc tiến công này sẽ lên tới đỉnh cao và kết thúc vào năm 1976.
Bộ Chính trị đã chỉ định người kế nhiệm của Võ Nguyên Giáp, đại tướng Văn Tiến Dũng chỉ huy cuộc tiến công quân sự liều lĩnh này. Nếu muốn thành công phải khắc phục nhiều khó khăn trong một thời gian ngắn. Đó không phải là việc đơn giản. Quân chủ lực Bắc Việt đã bị tổn thất nặng nề trong cuộc tiến công Lễ Phục sinh 1972 và việc tiếp tế hậu cần thu hẹp vì những chiến dịch thả mìn và bắn phá bằng không quân của Mỹ. Các lực lượng của Trung ương Cục miền Nam cũng trong tình trạng không khá hơn. Trần Văn Trà, Chỉ huy mặt trận B.2 viết: “Năm 1973, cán bộ chiến sĩ của chúng ta đã mỏi mệt, chúng ta không có thì giờ bù đắp những thiệt hại, tất cả các đơn vị đang lúng túng không biết xoay xở ra sao. Chúng ta thiếu cả người lẫn lương thực và đạn dược”. Trần Văn Trà cũng như Văn Tiến Dũng sẽ làm tất cả những gì họ có thể. Văn Tiến Dũng đưa các sư đoàn ở bên kia giới tuyến về củng cố và trang bị vũ khí mới. Đầu năm 1974, Văn Tiến Dũng cơ cấu lại các sư đoàn, thành lập bốn quân đoàn và mỗi đơn vị đều được bổ sung đủ quân số, tăng cường chất lượng chiến đấu, nâng cao trình độ huấn luyện và cải tiến trang bị kỹ thuật. Ông kiểm tra, theo dõi chặt chẽ việc làm các con đường mới và đường ống dẫn dầu mới để ủng hộ công tác hậu cần, chi viện cho miền Nam. Ông yêu cầu và được chấp thuận nâng cấp đường mòn Hồ Chí Minh, phát triển các trung tâm huấn luyện, lập các xưởng sửa chữa vũ khí, lấp đầy các kho lương thực và tổ chức thêm các bệnh xá quân y, cơ sở điều trị thương bệnh binh. Đến cuối năm 1974, quân đội của ông không những có thể chiến đấu lần nữa mà đây là lần đầu tiên được tiếp tế đầy đủ vào thời gian đòi hỏi, không phụ thuộc vào những kho dự trữ và các khối lượng chi viện đang được chuyển vào. Cuối cùng quân đội của ông đã trở thành một quân đội hiện đại.
Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và những người khác tiếp tục thúc dục tướng Văn Tiến Dũng bắt đầu một cuộc tiến công cuối cùng ở miền Nam. Trong các cuộc gặp với Quân ủy Trung ương bao giờ cũng do Võ Nguyên Giáp chủ tọa, Văn Tiến Dũng đề xuất ý kiến một cách thận trọng. Mặc dù ông muốn chuẩn bị một cuộc tổng tiến công ở miền Nam, trong cuộc họp với Bộ Chính trị cuối năm 1974, ông nói trước là một thắng lợi hoàn toàn đối với Việt Nam Cộng hòa đòi hỏi nhiều năm nữa. Võ Nguyên Giáp thì lạc quan hơn. Ông nhắc Văn Tiến Dũng phải nắm lấy thời cơ để có thể kết thúc chiến tranh trong năm 1975. Một trong những lo lắng khác của Văn Tiến Dũng là phải đề phòng phản ứng của Mỹ có thể can thiệp trở lại nhằm cứu vãn Việt Nam Cộng hòa nếu phát động một cuộc tiến công đại quy mô. Dù sao, Hoa Kỳ đã hứa sử dụng sứ mạng của không quân nếu cần để che chở Cộng hòa miền Nam. Văn Tiến Dũng quyết định trước hết hãy tập trung chỉ đánh một tỉnh để thăm dò phản ứng của Mỹ.
Văn Tiến Dũng chọn tỉnh Phước Long, cách Sài Gòn chỗ gần nhất hơn 60 cây số. Ngày 26/12/1974, ông hạ lệnh cho pháo binh bắn vào Phước Long. Ngày 5/1/1975, hai sư đoàn có xe tăng và pháo binh yểm hộ được lệnh tiến công về Phước Long. Không một máy bay B-52 nào xuất hiện trên bầu trời và sự yểm trợ của không lực ngụy quân không đáng kể. Cuộc kháng cự của quân đội Nam Việt Nam chấm dứt gần như ngay sau đó và ngày 6/1, Phước Long thất thủ. Mỹ đã không can thiệp. Được khuyến khích, Lê Đức Thọ ra lệnh cho Văn Tiến Dũng tiếp tục tiến công Buôn Ma Thuột. Cuộc tiến công đã được Văn Tiến Dũng hoạch định từ trước là mẫu mực về sự đơn giản. Ông đánh lạc hướng chú ý của quân đội Sài Gòn bằng cách tấn công một hướng khác rồi bất ngờ quay lại đánh mạnh Buôn Ma Thuột.
Ba sư đoàn tiến công Buôn Ma Thuột ngày 1/3. Một đội quân khác đánh vào phía tây Pleiku làm nghi binh. Cuối cùng quân của Văn Tiến Dũng tiến công vào thành phố ngày 10/3. Sau hai ngày giao chiến kịch liệt, ngụy quân Sài Gòn bỏ Buôn Ma Thuột rút chạy. Ngày 15/3 họ định mở cuộc phản công lấy lại Buôn Ma Thuột. Một lần nữa không thấy đâu sự can thiệp vào phút cuối cùng của Mỹ dù là yểm trợ bằng không lực để ủng hộ những người bạn cũ của mình. Rất nhiều nhân vật chính trị và tướng lĩnh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bắt đầu chạy trốn khỏi đất nước. Nhiều chỉ huy trung đội bỏ rơi đơn vị, chạy thoát thân để mặc đồng đội tiếp tục chiến đấu và chết thay cho họ. Tiếc thay người nào càng ở cấp cao thì chắc chắn càng gặp nguy nan, nhưng đó lại là những người chạy đầu tiên trong đội quân của Sài Gòn. Những tuần lễ này và những tuần tiếp theo không phải là thời gian vinh quang nhất của lịch sử Việt Nam Cộng hòa.
Ngày 12/3, Võ Nguyên Giáp với tư cách là Bí thư Quân ủy Trung ương chuyển đến hành dinh của Văn Tiến Dũng những chỉ thị cuối cùng của Bộ Chính trị: bao vây Pleiku, cắt mọi con đường và sân bay, tiến quân không cần báo cáo tiến độ, phong tỏa tin tức từ mặt trận không để lọt ra ngoài.
Tướng Văn Tiến Dũng ra lệnh các đơn vị di chuyển gấp xuống phía nam, theo Quốc lộ 1 hướng về Huế. Tổng thống Thiệu rút bỏ Huế và đòi lập phòng tuyến ở bắc Đà Nẵng. Vô ích! Đà Nẵng thất thủ ngày 29/3, không có trận giao chiến lớn nào và số người chết, bị thương tương đối nhỏ. Quân lực Việt Nam Cộng hòa tan rã, hoảng hốt và không còn sức chiến đấu. Các đơn vị của Văn Tiến Dũng tiếp tục tiến xuống quét sạch lực lượng đối phương còn lại ở Vùng 2 chiến thuật, khoảng giữa tháng 4 thì hoàn toàn chiếm được Vùng 2 chiến thuật.
Ngày 25/3, Bộ Chính trị ra lệnh Văn Tiến Dũng đánh chiếm Sài Gòn trước mùa mưa vào giữa tháng 5. Sau khi suy nghĩ, Văn Tiến Dũng đề nghị đặt tên cho cuộc tiến công cuối cùng là “Chiến dịch Hồ Chí Minh” và được chấp nhận ngay. Ông liền điều các sư đoàn ưu tú tiến vào Sài Gòn, trên 15 sư đoàn bộ binh, hàng trăm xe tăng và pháo binh. Ông còn có thể sử dụng một cách hạn chế lực lượng không quân nhỏ bé của miền Bắc. Những cỗ pháo phòng không đi theo các cánh quân tiến về Sài Gòn trong trường hợp máy bay của Việt Nam Cộng hòa tìm cách ngăn cản cuộc tiến quân.
Rất nhiều quân nhân Mỹ theo dõi việc bố trí lực lượng tiến công của Văn Tiến Dũng khẳng định rằng Bắc Việt đã bỏ chiến thuật chiến tranh nhân dân để thực hành một cuộc tấn công cổ điển có trình độ cao. Một người khác mô tả cuộc tiến công của Văn Tiến Dũng như là “sự sao chép cuộc tiến công theo kiểu Mỹ”. Nhưng như John Gates đã viết: “Không có một đơn vị nào của quân đội Mỹ lại có thể dựa vào sự giúp đỡ của các lực lượng dân quân du kích và cán bộ chính trị để tạo thuận lợi và ủng hộ các cuộc tiến công của quân đội chính quy”. Sau này cả Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng đều viết: “Khắp nơi, các lực lượng địa phương, dân quân du kích và các đội tự vệ đều nắm lấy thời cơ tiêu diệt địch trong Chiến dịch Hồ Chí Minh… Những lực lượng đó giành quyền làm chủ ở nhiều địa phương, tiêu diệt hoặc bức rút nhiều đồn bốt doanh trại của địch, xóa bỏ bộ máy kìm kẹp của địch, đập tan các tổ chức “phòng vệ nhân dân” của địch. Những lực lượng đó bằng hoạt động của mình đã tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực có thể tập trung lực lượng tiến công các mục tiêu chủ yếu của cuộc tổng tiến công. Cuộc tấn công hoàn toàn phù hợp với những phương châm tác chiến trong giai đoạn ba của chiến tranh toàn dân giải phóng dân tộc.”
Đối với chính quyền miền Nam, sự sụp đổ tính từng ngày. Đến tháng 4, khi các sư đoàn của Văn Tiến Dũng đã tiến cách Sài Gòn 65 cây số, cuộc tiến công thành phố sẽ đánh vào năm mục tiêu chủ chốt: các cánh quân chia nhau mỗi cánh được giao đánh chiếm một mục tiêu, theo một trục, sẽ đập tan sức đề kháng bằng những cuộc giao chiến có tính quyết định trong thành phố. Trên bờ vực thẳm, Tổng thống Thiệu chạy trốn sang Đài Loan ngày 21/4 và Phó tổng thống Kỳ cũng chuồn sau ông ta ít hôm. Vài ngày sau, một liên minh các tướng lĩnh và nhân vật chính trị chỉ định tướng Dương Văn Minh làm Tổng thống vì như lời thú nhận của ông sau này, ông có “quan hệ” với phía bên kia và phải có ai đó đứng ra thương lượng với họ.
Chiến dịch Frequent Wind do Mỹ lập ra nhằm di tản người Mỹ và một số người Việt Nam được biệt đãi ra khỏi Sài Gòn, tiến hành một cách chệch choạc, trong lúc trực thăng Mỹ chở quá tải người di tản từ trên nóc nhà Đại sứ quán Mỹ bị những người bị bỏ lại bao vây, phải vất vả lắm mới cất cánh được. Trưa ngày 30/4, một đoàn xe tăng Bắc Việt đã tiến vào Dinh Tổng thống và chiếc xe đi đầu đã húc đổ cánh cổng sắt nặng nề. Cuối cùng chế độ Việt Nam Cộng hòa đã sụp đổ. Hai thực thể Việt Nam – Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – từ nay được mọi người biết đến dưới cái tên Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
“Sau giải phóng Sài Gòn, tôi vui mừng cuồng nhiệt”, Võ Nguyên Giáp tâm sự với một nhà báo đến phỏng vấn. Ông bay ngay vào Sài Gòn và đi thị sát Bộ Tổng tham mưu của ngụy quyền. Ông nói: “Tất cả còn nguyên, bởi lẽ chúng bỏ trốn quá nhanh không kịp tiêu hủy giấy tờ. Tôi nhớ đến hệ thống máy tính của chúng dùng để xác định vị trí của Việt Cộng. Bên cạnh đó là hệ thống màn hình hiển thị các vũ khí và phương tiện chiến tranh được điều khiển bằng máy tính. Nhưng hôm đó tôi có ấn tượng sâu sắc là sức mạnh tổng hợp quân sự khổng lồ của quân đội Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn”. Ông rút ra một kết luận khác: “Tất cả thiết bị hiện đại đều vô ích. Nhân tố con người là quyết định”.
Một hôm có người hỏi ông trong số ba tướng Mỹ mà ông phải đương đầu thì ai hơn cả, ông đáp: “Tôi không muốn chỉ trích sau lưng họ, vì tôi không gặp ai trong căn phòng này. Người Pháp cũng đã hỏi tôi như thế vì họ đã chín lần thay tướng!” Rồi trực diện hơn ông nói thêm: “Tôi nghĩ rằng tướng Westmoreland có kinh nghiệm và được đào tạo tốt. Ông ta đã nhìn ra các vấn đề và đã yêu cầu tăng thêm 200.000 quân. Tôi không nói là việc đó có tốt hay không nhưng nếu ông ta nghĩ rằng chỉ thêm 200.000 là đủ thì ông ta đã lầm.” Rồi Võ Nguyên Giáp nói đến tướng Abrams người kế nhiệm Westmoreland và cũng như ông này, nhậm chức Tổng tham mưu trưởng liên quân. Giáp nhận xét: Tướng Abrams dựa trên sự nghiên cứu tìm tòi. Ông ta đã nghiên cứu kinh nghiệm bản thân và của người khác để xem cái gì có thể vận dụng vào tình hình thực tế ở đây, nhưng ông ta tưởng là ông ta sẽ thắng và ông ta đã lầm. Tướng Weyand kế nhiệm ông Abrams vừa chỉ huy quân sự Mỹ ở Việt Nam vừa làm Tham mưu trưởng lục quân Mỹ. “Đối với Weyand”, Giáp nói, “ông ta cho rằng không thể đi đến thắng lợi. Tình hình lúc đó rất khác vì ông ta phải gánh những hậu quả của hai vị tướng tiền nhiệm để lại. Sai lầm của họ là xâm lược nước chúng tôi nhưng Chính phủ Mỹ mới là kẻ chịu trách nhiệm. Tôi chỉ nói được có thế.”
Một lần nữa, Võ Nguyên Giáp có dịp để bày tỏ những cảm nghĩ của ông đối với khả năng chiến đấu của lính Mỹ. Ông nhớ lại, trên một chuyến bay về Hà Nội, ông mặc thường phục nhưng một số cựu chiến binh Mỹ ngồi cạnh đã nhận ra ông do đọc được tên ông ghi trên tấm phiếu hành lý. Một trong số đó đã hỏi ông: Thưa tướng quân, ngài nghĩ thế nào về lính Mỹ?
- Lính Mỹ cũng như những người lính khác, khi họ được chỉ huy tốt thì họ chiến đấu giỏi.
Nhưng họ đã thua, không phải lỗi của họ mà do lỗi của người lãnh đạo.
Ông kết luận: “Người lính Mỹ không bao giờ nên tham gia vào một cuộc chiến tranh xâm lược. Nếu họ trọng danh dự và yêu mến tự do của bản thân họ thì họ nên trọng danh dự và yêu mến tự do của người khác.”
Rất nhiều người Mỹ thất vọng vì kết cục của cuộc chiến tranh Việt Nam. Có nhiều lời đả kích và cũng không ít lời nói trái ngược trong dư luận Mỹ để tìm ra sự thất bại đó là do đâu. Một con người trước đây nhiều năm lẽ ra người ta phải nghe ông, cuối cùng phải nói trong một cuộc trả lời phỏng vấn rằng, phần lớn lỗi lầm là do kiêu căng và dốt nát. Với tính hay nói thẳng, Lucien Conein ít nhất đã sống nhiều năm ở Đông Nam Á hơn bất cứ người Mỹ nào khác. Ông tóm tắt ý kiến của mình như sau: “Năm 1956, tôi trở về Mỹ sau khi từng trải ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam, sau khi chúng ta đã dựng nên một chế độ “dân chủ” ở Sài Gòn. Trước khi xung vào lực lượng đặc biệt ở Fort Bragg, tôi đã được dự tổng kết ở Lầu Năm Góc. Người ta hỏi tôi tại sao quân đội Pháp đã bị thất bại khi họ kiểm soát bầu trời ở Việt Nam. Tôi nói người Pháp đã phạm nhiều sai lầm: 1/ Họ phụ thuộc vào đường sá, Quốc lộ 5 ở miền Bắc, “con đường không vui” ở miền Trung. 2/ Họ bị phục kích. Đúng là họ kiểm soát bầu trời, nhưng… 3/ Họ cũng xây dựng những đồn tiền tiêu nhỏ trên khắp nước. Ban đêm quân Việt đến đã “thiến” những người Pháp đang ngủ trong các đồn bốt khốn khổ kia. Thế đấy!
Tôi nói rằng chúng ta không được mắc những sai lầm đó. Thế là họ (các cấp ở Lầu Năm Góc) nói rằng chúng tôi sẽ làm tốt hơn.
“Vậy… chúng tôi đã gửi máy bay nhiều hơn mười lần. Nào pháo đài bay B-52, nào Sấm rền và chúng tôi cũng có những đồn bốt tiền tiêu nhỏ mà chúng tôi gọi là căn cứ yểm trợ hỏa lực. Chúng tôi đã phụ thuộc vào các con đường. Thế là điều đó đã xảy ra với chúng tôi y hệt như đã xảy ra với người Pháp trước đây. Chỉ có mỗi một điều mà chúng tôi không học được! Thế đấy!
Cứ mỗi khi có ai mới đến đây, họ đều nghĩ rằng rồi họ sẽ chiến thắng. Tôi xin nói thật, tuần lễ đầu tiên tôi đến Việt Nam là năm 1945, tôi tưởng là tôi đã biết hết. Tôi rời khỏi Việt Nam sau 16 năm ở đó – và tôi đã nhận ra là tôi tuyệt đối không biết gì hết.”
Trung Quốc ở vào thời của Giáp là một nơi ẩn náu đối với ông. Năm 1940, ông đã trốn sang Trung Quốc để thoát khỏi nanh vuốt của Phòng Nhì Pháp. Sau đó ông dùng các tỉnh miền nam Trung Quốc làm chỗ huấn luyện bộ binh và trường bắn của pháo binh. Người Trung Quốc đã giúp đỡ vật liệu để ông sử dụng trước tiên, chống lại người Pháp, sau đó chống lại người Mỹ. Những người “tình nguyện” Trung Quốc đã giúp miền Bắc làm đường sá, bảo dưỡng và bảo vệ đường sắt trong các chiến dịch ném bom của Mỹ. Họ đã phục vụ một số pháo phòng không của chính phủ Hà Nội. Không một ai, trong đó có Võ Nguyên Giáp, có thể phủ nhận sự viện trợ của Trung Quốc trong 25 năm đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, những tình cảm đối với Chính phủ Trung Quốc ngày càng trở nên chua chát.
Tướng Võ Nguyên Giáp nổi tiếng trong số những nhà lãnh đạo ở miền Bắc là người ủng hộ những mối liên hệ chặt chẽ với Liên Xô. Bảy năm sau khi thống nhất, năm 1982, trong một cuộc trả lời phỏng vấn, ông đã để lộ ra một phần những lý do khiến ông phản đối chính phủ cộng sản láng giềng. Ông nói: “Chính phủ Trung Quốc muốn duy trì một nước Việt Nam bị chia cắt, làm chậm ngày thống nhất đất nước. Người Trung Quốc muốn duy trì lực lượng của chúng tôi ở trình độ thấp kém… trong thời gian dài… Họ nói với chúng tôi… rằng Việt Nam sẽ thống nhất nhưng… phải cần trăm năm nữa!”
Ông không muốn kéo dài một tình hình như thế với một Việt Nam khác ở miền Nam bị tách rời với miền Bắc trong thời gian dài. Ở một lúc, với thái độ thẳng thắn ít giữ gìn và ít canh chừng hơn, Võ Giáp nhắc nhở người đối thoại với mình: “Mùa xuân năm 1975 chúng tôi đã mở cuộc Tổng tiến công kết thúc bằng thắng lợi hoàn toàn nhưng Bắc Kinh đã phản đối.”
Ông không nói thêm nữa. Ông không phát triển thêm ý của mình. Nếu điều đó đúng sự thật thì nó phủ nhận mọi ước tính và đánh giá theo tin tức của phương Tây ở thời đó, theo đó thì Trung Quốc ủng hộ cuộc tiến công cuối cùng giải phóng hoàn toàn miền Nam của Bắc Việt.
Có lẽ người Trung Quốc sợ mất quá nhiều ảnh hưởng đối với Việt Nam thống nhất. Riêng miền Bắc – là một quốc gia có thể nhận là được che chở – sẽ quá yếu để chống lại những ý đồ của người Trung Quốc muốn mở rộng ảnh hưởng sang Lào và Campuchia. Duy trì nguyện vọng (chia cắt) trong hoàn cảnh đó, có thể là một phần của kế hoạch Bắc Kinh và do đó là một lý do đủ để phản đối cuộc tiến công cuối cùng giải phóng miền Nam của Bắc Việt đối với miền Nam.
Theo đề nghị của Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp dẫn đầu phái đoàn Việt Nam trong chuyến viếng thăm hai nước Cu Ba và Algeria. Ngoài thời gian sống ở mấy tỉnh biên giới nam Trung Quốc trong chiến tranh thế giới, sang Liên Xô năm 1967 khi ông đi dự lễ kỷ niệm 50 năm Cách mạng tháng Mười và cuộc đi nước ngoài mới đây để chữa bệnh, Võ Nguyên Giáp ít đi nước ngoài nhất trong số các nhân vật lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Ông đã suy nghĩ rất nhiều về lịch sử và văn hóa các nước khác nhưng từ lâu ông bỏ hy vọng đi nước ngoài dài ngày. Ông chấp nhận đề nghị của Lê Duẩn dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam. Phái đoàn của ông đã đi đến La Havane, thứ Hai ngày 15/12/1975 dự Đại hội lần thứ I Đảng Cộng sản Cu Ba. Trước khi rời Cu Ba, ông thăm các trường học, các bảo tàng, một nhà máy phân bón.
Ông đặt hoa tại đài tưởng niệm Jose Marti, có hai buổi hội đàm dài với Raul Castro, phát biểu tại các cuộc mít tinh của các sĩ quan quân đội và những người hoạt động chính trị.
Võ Nguyên Giáp và đoàn tuỳ tùng bay tiếp sang Algeria theo lời mời của Houari Boumedie – Chủ tịch Hội đồng Cách mạng, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ và Nhân dân Algeria.
Võ Nguyên Giáp kể lại một sự việc: trong buổi lễ kỷ niệm Ngày độc lập của Algeria bỗng nhiên ông thấy trước mặt là Zbigniew Brzezinski, sắp làm cố vấn anh ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ Jimmy Carter. “Mặc dù không có nhiều thì giờ để nói chuyện, chúng tôi đã chào hỏi nhau”. Brzezinski đã tỏ lòng khâm phục đối với nhân dân Việt Nam dũng cảm và đặt nhiều câu hỏi với Võ Nguyên Giáp về chiến lược quân sự. “Ngài hãy nói với người Mỹ là chiến lược của Giáp là chiến lược hòa bình, độc lập và tự do,” ông nói với Brzezinski. “Người Việt Nam biết thế nào là chiến tranh. Người ta đã buộc chúng tôi phải tham gia chiến tranh và chúng tôi đã phải phát động chiến tranh để tự bảo vệ. Đó là một cuộc chiến mà chúng tôi bắt buộc phải làm, chúng tôi là dân tộc yêu chuộng hòa bình nhất thế giới.” Chắc hẳn đó không phải là câu trả lời mà Brzezinski chờ đợi. Ngày 21/1 cả đoàn của Võ Nguyên Giáp quay về Hà Nội.
Vào cuối năm 1976, hoạt động của Võ Nguyên Giáp chủ yếu là tham dự các buổi lễ lạt. Vị tướng 65 tuổi không cho phép mình nghỉ ngơi. Ông thường nhắc lại: “Cái ngày đất nước chúng tôi sạch bóng quân thù, mà miền Bắc và miền Nam thống nhất trong một gia đình… và một kỷ nguyên mới đối với đất nước chúng tôi sẽ đến…”
Trong những lần xuất hiện đó, các thông điệp của Võ Nguyên Giáp luôn luôn nhắc nhở là nhiệm vụ của người lính. Công việc của người lính chưa xong. Người lính đã thắng trong cuộc chiến nay phải thắng trong hòa bình. Không phải đánh nhau với kẻ thù nữa, người lính bộ, lính thủy và phi công ngày nay phải gánh một nhiệm vụ khác đó là “xây dựng kinh tế và làm cho đất nước phát triển”. “Cố gắng đó không một phút nào buông lơi. Đó là xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội góp phần vào việc thúc đẩy nền kinh tế tiến lên, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa để xây dựng một đất nước phồn vinh và giàu mạnh”.
Năm 1977, Võ Nguyên Giáp hài lòng về một thành tựu mới mẻ. Từ lâu ông vẫn yêu cầu lập một trường quân sự cao cấp. Đã đến lúc quân đội phải được hiện đại hóa và phải được hưởng những lợi thế như quân đội nước ngoài. Cuối cùng Võ Nguyên Giáp đã có được điều mình muốn. Học viện Quân sự Cao cấp Quân đội nhân dân Việt Nam khai giảng buổi học đầu tiên ở Hà Nội ngày 3/1/1977. Võ Nguyên Giáp đọc diễn văn khai giảng: “Chúng ta phải hết sức mình”, ông tuyên bố trước cử tọa, “tập hợp một đội ngũ cán bộ quân sự cao cấp tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, có những phẩm chất cách mạng cao quý, trưởng thành, được rèn luyện về chính trị, có kiến thức cơ bản và hệ thống của khoa học quân sự, nắm vững kiến thức về kinh tế, khoa học và công nghệ, có khả năng lãnh đạo và chỉ huy. Họ phải biết sử dụng phép biện chứng để xem xét, phân tích và giải quyết các vấn đề chiến lược và chiến thuật… đặt ra cho quân đội ta trong mọi tình huống”.
Rồi đến lúc ông lại có chuyến đi ra nước ngoài. Lần này Võ Nguyên Giáp dẫn đầu đoàn đại biểu đi một chuyến dài ngày thăm các nước cộng sản: Liên Xô, Đông Đức, Hungari và Ba Lan để củng cố mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước đó. Võ Nguyên Giáp đến Matxcova ngày 10/3.
Rồi phái đoàn của Võ Nguyên Giáp bay đi Đông Đức, tại đây phái đoàn được Erich Honecker – Tổng bí thư Đảng Xã hội Chủ nghĩa Đức tiếp đón. Võ Nguyên Giáp nói ở một cuộc mít tinh của các sĩ quan cao cấp, trí thức và công nhân ở Dresden: “Nhân dân Việt Nam hoàn toàn ủng hộ… thực tế chung sống hòa bình giữa hai nhà nước Đức độc lập và có chủ quyền, triệt để tôn trọng chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”.
Tiếp đó là cuộc đi thăm Hungari theo lời mời của Lajos Czinege - Bộ trưởng Quốc phòng. Đó là 11 ngày tham quan và gặp gỡ trong một bầu không khí hoàn toàn đoàn kết chiến đấu. Sau đó ông đi Warsaw theo lời mời của Wojciech Jaruzelski, Bộ trưởng Quốc phòng Ba Lan. Ông ở Ba Lan đến cuối tháng rồi trở lại Hà Nội vào ngày 7/5, các chuyến đi đó đối với ông là rất đáng hài lòng. Trong mỗi một nước đến thăm, đoàn của ông là khách của Bộ trưởng Quốc phòng, được người đứng đầu Đảng Cộng sản tiếp và như thường lệ có một loạt các cuộc hội đàm, mít tinh, chiêu đãi, v.v…
Về nước chưa được một tháng, ông lại dẫn đầu một đoàn đại biểu đi Trung Quốc trong một chuyến thăm ngoại giao. Lần này ngoài ý nghĩa thăm hữu nghị chính thức, còn nhằm được bảo đảm rằng những lời hứa về viện trợ quân sự vẫn tiếp tục được thực hiện. Lần này ông được đi thăm một số địa phương ở Trung Quốc. Trong một buổi chiêu đãi vào tối 6/6, tướng Giáp gắn huân chương Hữu nghị của Việt Nam cho một số đơn vị quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc vì có những cống hiến đặc biệt cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
Vào lúc cao điểm của cuộc chiến tranh và các cuộc ném bom của Mỹ trên miền Bắc, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã gửi khoảng 120.000 người sang đóng dọc đường sắt đến Hà Nội. Một số thuộc các đơn vị phòng không, một số khác là các kỹ sư và công nhân chuyên về đường sắt và rất nhiều công nhân sửa chữa đường ray ngay sau khi Mỹ vừa ném bom phá hủy. Họ đã rời Việt Nam ngay sau khi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc, sau lễ Giáng sinh năm 1972.
Giáo sư Harvey Nelsen, chuyên gia về quân đội Trung Quốc và nhà phân tích tình báo của Bộ Quốc phòng Mỹ đã tuyên bố: “Thời đó chúng tôi có biết về sự có mặt của họ nhờ các cơ quan tình báo của chúng tôi... Chính Trung Quốc sau này cũng đưa ra con số mười hai vạn. Chúng tôi nghĩ rằng họ không có quá con số hơn tám vạn”.
Trong lúc ở Trung Quốc, Võ Nguyên Giáp thảo luận vấn đề Khmer Đỏ với người Trung Quốc. Nhiều năm trước Việt Nam đã bảo vệ và ủng hộ những người du kích Campuchia chống Chính phủ của Hoàng thân Sihanouk. Tình hình thay đổi khi ban lãnh đạo Khmer Đỏ lật đổ Chính phủ quân sự của Lon Nol tháng 4/1975. Các nhà lãnh đạo Khmer Đỏ trượt nhanh trên sự tàn bạo cổ sơ của họ.
Đối với Khmer Đỏ, năm 1975 là năm “số không”, một dịp để tàn phá hủy diệt đất nước Campuchia. Họ vứt bỏ di sản của chính họ, tàn sát hàng trăm nghìn đồng bào của họ để tạo nên một chính thể cộng sản không tưởng. Pol Pot đuổi hết dân ra khỏi các thành phố, bắt họ làm việc trên những cánh đồng cho đến kiệt sức mà chết. Nước “Kampuchea” của họ, nói theo từ ngữ của phóng viên báo New York Times, trở thành “cánh đồng hủy diệt” một phần ba dân số trong nước. Một số may mắn chạy thoát được ra nước ngoài. Hàng trăm ngàn người di tản sang Việt Nam. Những người quan sát tại chỗ được chứng kiến một cách khiếp sợ những bạo hành ngày càng dã man của Pol Pot.
Quân đội Khmer Đỏ không những chà đạp đất nước họ mà còn tiến hành các cuộc xâm lược qua biên giới đánh vào các làng xóm của Việt Nam, thường xuyên vi phạm đường biên giới. Khmer Đỏ giải thích rằng họ đi tìm những kẻ chạy trốn để đưa về đất nước họ. Có những cuộc giết chóc man rợ xảy ra vào tháng trước khi Võ Nguyên Giáp đến Bắc Kinh. Trung Quốc tiếp tục ủng hộ Khmer Đỏ và cung cấp phần lớn vũ khí, đạn dược cho chúng. Nhiều cố vấn Trung Quốc phục vụ trong quân đội Campuchia. Bây giờ Võ Nguyên Giáp thừa nhận rằng trong những vụ xích mích biên giới mới đây, quân đội của ông đã bắt một số tù binh là những cố vấn Trung Quốc cho quân đội Campuchia. Đó không phải là những thông tin mà Trung Quốc muốn nghe nhưng Giáp muốn làm cho họ hiểu rõ ràng rằng Hà Nội quyết tâm duy trì quyền uy của mình trên toàn Đông Dương. Nói chung Võ Nguyên Giáp nói với người Trung Quốc là Việt Nam sẽ làm cho mọi người biết quyền lực của họ. Sau đó ông trở về nước. Sau những chuyến đi ngoại giao, Võ Nguyên Giáp trở về các hoạt động lễ nghi của mình ở trong nước, nói chuyện với đông đảo quần chúng ở khắp nơi. Tháng 10, ông gặp nữ nhà báo Pháp Berengère d’Aragon và ông nói về các vấn đề khó khăn lớn ở miền Nam hiện nay – thất nghiệp, số dân quá đông ở Sài Gòn vì dân tị nạn chiến tranh đổ về thành phố. Cần phải đưa họ về vùng nông thôn. Nhưng “làm sao để họ trở về nông thôn khi đã nếm mùi cuộc sống ở thành phố?” Ông nói về những khó khăn và những nguy cơ khi phải gỡ mìn trên các cánh đồng do cả hai bên ta và địch rải trong thời kỳ chiến tranh – những lời nhắc nhở khủng khiếp về cuộc xung đột đã qua. Rồi còn những người nghiện ma túy. “Một món quà đẹp của người Mỹ trước khi rút về nước”.
Berengère d’Aragon hỏi Võ Nguyên Giáp về các sĩ quan của quân đội Việt Nam Cộng hòa (ngụy quân). Võ Nguyên Giáp trả lời: “Họ sẽ được hòa nhập vào xã hội chúng tôi với tư cách là công dân có đầy đủ quyền lợi! Dĩ nhiên là có ngoại lệ, có những trung tâm cải huấn để họ cải tà quy chính”.
Cũng trong tháng đó, quân đội Việt Nam hành động chống lại với Khmer Đỏ. Tướng Văn Tiến Dũng hạ lệnh cho xe bọc thép tiến qua biên giới vào sâu nội địa Campuchia đến 25 cây số thuộc tỉnh Svay Rieng có biên giới chung với Việt Nam. Một tiểu đoàn Khmer Đỏ truy kích, đuổi theo đoàn xe, vượt biên giới đến khu rừng rậm thuộc phía tây của Việt Nam. Thế là một đơn vị Việt Nam phục kích sẵn đánh tạt sườn quân Khmer Đỏ, cắt đường về và gây cho chúng nhiều tổn thất. Văn Tiến Dũng và Võ Nguyên Giáp đều hy vọng đây là thông điệp đủ để Pol Pot phải rút lui.
Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt
- Tác giả : Ngô Văn Phú
- Danh mục : Lịch sử