Chiến thắng bằng mọi giá

Chương 18 “Chỉ có các triết gia mới nói đến quy luật”

<<Chương 17 “Tuyệt đối bí mật và an toàn là khẩu hiệu của chúng tôi” Chương 19 “Washington không thể nhìn thấy cuối đường hầm” >>

Chương 18 “Chỉ có các triết gia mới nói đến quy luật”

Năm 1964, chiến tranh ở miền Nam đã phát triển tới mức các đơn vị Việt Cộng có thể mở các cuộc tiến công với quy mô trung đoàn tham gia. Thực tế là không thể duy trì cuộc chiến đấu ở mức đó nếu chỉ bằng lòng với việc sử dụng chiến lợi phẩm thu được của quân đội Cộng hòa để tự trang bị. Võ Nguyên Giáp tăng thêm khối lượng tiếp tế của miền Bắc chi viện cho miền Nam. Ông nói: “Đế quốc hiếu chiến Mỹ không từ bỏ ý định can thiệp vũ trang vào miền Nam Việt Nam”. Ông hy vọng John Kennedy chết rồi, người kế nhiệm sẽ khôn ngoan hơn để chấm dứt viện trợ Mỹ. Nhưng ông nhanh chóng nhận thấy Johnson cũng chẳng hơn gì Kennedy. Cuộc chiến tranh vẫn tiếp tục.

Võ Nguyên Giáp xây dựng kế hoạch để tấn công vào Sài Gòn. Khoảng năm 1964 Việt Cộng đã có ba sư đoàn áp sát Sài Gòn chỉ cách có khoảng 80 km, khi nào muốn, có thể cô lập Sài Gòn, tung lực lượng còn lại tấn công vào nội đô. Giữa tháng 4, trả lời nhà báo Australia – Wilfred S. Burchett – vừa đi thăm vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam về, Võ Nguyên Giáp tuyên bố: “Tương quan lực lượng đã chuyển sang có lợi cho miền Bắc, bất chấp sự xâm lược tàn bạo và vô liêm sỉ của Mỹ”. Ông cười nói thêm: “Đa số các vũ khí của Việt Cộng đều có ghi made in USA (chế tạo ở Mỹ) ngay cả máy móc quân giải phóng dùng để chế tạo vũ khí cũng đều gia công ở Mỹ. Mỹ và tay sai ở miền Nam không cần tranh cãi... là họ sẽ thua hay thắng mà là bao giờ thua”?

Lạc quan của Võ Nguyên Giáp với sự phân tích của ông vào thời điểm này là hơi sớm. Cuộc tranh luận về chiến tranh Việt Nam sẽ chia rẽ dư luận còn chưa nổi lên ở Mỹ. Sau đó vài tháng, đánh giá tình hình một cách thực tế hơn, Võ Nguyên Giáp nhận xét: “Không may là Mỹ không chịu tự mình rút về nước trừ phi nhân dân Việt Nam sử dụng mọi hình thức chiến tranh cách mạng để chiến đấu chống lại chúng”. Trong một bài báo khác viết nhân dịp kỷ niệm 10 năm Hiệp định Geneva đăng trên báo Nhân dân ngày 19/7, ông tố cáo Mỹ đã vi phạm hiệp định ngay khi mực chưa ráo bằng những “hành động bí mật và nham hiểm” nhằm cho phép Mỹ kiểm soát nước Lào, Campuchia và Nam Việt Nam. Ông cũng nhận xét rằng chế độ Diệm - Nhu sụp đổ đã đưa chính quyền bù nhìn và quân đội của chúng đảo lộn lung tung. Ông buộc tội chính quyền miền Nam “không thể đứng vững trên đôi chân của chính mình nếu không bám vào quan thầy như một kẻ đầy tớ ngoan ngoãn”.

Đi xa hơn nữa, Võ Nguyên Giáp tố giác việc Tổng thống Lyndon Johnson cử tướng Maxwell Taylor là đại sứ mới tại Việt Nam Cộng hòa, chứng tỏ Hoa Kỳ theo đuổi chính sách “chiến tranh và khủng bố”. Ông chế giễu hy vọng của Taylor cứ tưởng rằng miền Nam sẽ được bình định trong 18 tháng. Ông tiên đoán kế hoạch của Taylor sẽ thất bại như kế hoạch của các tướng Pháp kế tiếp nhau đến Việt Nam với ý định lập lại nền thống trị thuộc địa. Võ Nguyên Giáp liệt kê các thành tích chỉ trong nửa năm Việt Cộng đã đánh gần 14.000 trận lớn nhỏ, san phẳng 400 đồn bốt địch, bức rút 550 đồn bốt khác, giết và bắt 42.000 lính Cộng hòa và loại khỏi vòng chiến đấu 30.000 tên khác, 170 máy bay bị bắn rơi và 500 lính Mỹ bị giết, bị thương và bị bắt sống. Ai muốn ngờ vực các số liệu của miền Bắc đưa ra chỉ cần đọc lướt qua các nguồn tin của Mỹ ít nhất cũng thấy rõ những tổn thất của nước này. Năm 1963, 489 người Mỹ đã bị thương hoặc bị giết, tức nhiều hơn bốn lần năm trước. Khoảng 16.500 lính Mỹ đã phục vụ ở Việt Nam và viện trợ của Washington lên tới 500 triệu đôla.

Cuộc xung đột chờ dịp leo thang do các hoạt động do thám bí mật của hải quân Mỹ không đem lại kết quả mong đợi. Những hoạt động đó có tên là “nhiệm vụ Desoto” nhằm phát hiện các tàu của miền Bắc chở tiếp tế cho các lực lượng quân giải phóng ở miền Nam, xác định các trạm rađa ven biển và các thiết bị điện tử khác, ghi các tin tức ngoài biển để cung cấp cho các đội biệt kích đổ bộ vào bờ biển Bắc Việt. Ba ngày trước khi bị ám sát, Kennedy đã đồng ý một chương trình bổ sung được đặt tên là “Kế hoạch tác chiến 34-A hoặc OPLAN 34-A” bao gồm những cuộc xâm nhập nhỏ của các đội biệt kích vào vùng ven biển Bắc Việt để đặt mìn phá cầu cống, các kho hàng cùng các mục tiêu khác.

Đô đốc Ulysses Grant Sharp Jr. – Tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương – ra lệnh cho hàng không mẫu hạm Ticonderoga xâm nhập vịnh Bắc Bộ. Trong thời gian đó, tàu khu trục Maddox được trang bị nhiều thiết bị do thám điện tử xâm nhập Bắc Việt. Lợi dụng đêm tối, ngày 30 rạng 31/7/1964, một tổ OPLAN 34-A tiến công hai đảo nhỏ Hòn Mê ngoài khơi tỉnh Thanh Hóa và Hòn Ngư ngoài khơi tỉnh Nghệ An. Mặc dù có 6 tàu phóng ngư lôi đặc biệt gọi là SWIFT (chim én), lực lượng biệt kích không đưa được biệt kích đổ bộ vào, nhưng trước khi trở về căn cứ cũng đã bắn phá các cơ sở phòng thủ ở đó. Tàu Maddox đậu lại để giám sát các cuộc truyền tin bằng rađa và radio.

Có thể là các lực lượng phòng thủ Bắc Việt không thể phân biệt được giữa các hoạt động Desoto và OPLAN 34-A. Tiếp sau cuộc tiến công của các tàu phóng lôi SWIFT, các cuộc nghe trộm điện tử trên tàu Maddox cho biết người Bắc Việt Nam đang chuẩn bị các hoạt động tác chiến để trả đũa. Lúc đó Maddox ở cách Hòn Mê khoảng 5 km – một mục tiêu mà OPLAN 34-A đang nhằm vào – nhưng còn cách bờ biển khoảng 22 km. Thuyền trưởng John Herrick chỉ huy tàu Maddox nghĩ rằng đó là một cuộc tiến công trả đũa có thể nhằm vào tàu của mình nhưng cấp trên ra lệnh chỉ được tuần tiễu chứ không được tiến công.

Chiều ngày 2/8, ba tàu tuần tiễu nhỏ tiến về phía tàu Maddox, Herrick báo cáo qua điện đài xin chỉ huy trưởng hàng không mẫu hạm Ticonderoga phái máy bay yểm trợ. Khi tàu Bắc Việt đến gần cách tàu Maddox khoảng chục km, Herrick nổ súng. Tàu phóng lôi Bắc Việt bắn đại liên 12,7 mm và phóng ba quả lôi nhưng hai quả trượt mục tiêu, còn quả thứ ba không nổ. Tàu Maddox bắn trúng và đánh đắm một tàu phóng lôi Bắc Việt. Ba máy bay F-8E của hàng không mẫu hạm Ticonderoga đến kịp thời, bay là là bắn đuổi hai tàu phóng lôi khác trở về căn cứ. Thiệt hại của tàu Maddox là ở thượng tầng bị trúng mảnh đạn liên thanh 12,7 mm.

Khi Tổng thống Lyndon Johnson nghe phong thanh tin tàu Maddox bị tàu phóng lôi Việt Cộng tiến công, lúc đó là sáng sớm 2/8, theo múi giờ của Washington, ông bác bỏ ý kiến trả đũa nhưng tiếp tục nhiệm vụ do thám Desoto được tăng cường thêm một tàu khu trục nữa là tàu C.Turner Joy. Đô đốc Sharp chỉ huy hạm đội Thái Bình Dương hạ lệnh cho hai tàu Maddox và C. Turner Joy ban ngày tiến vào vùng biển Bắc Việt cách bờ biển 12 km và cách các đảo khoảng 7 km để thực hiện quyền “tự do lưu thông trên biển”. Trong thời gian đó, các hoạt động OPLAN 34-A tiếp tục, có hai lần xâm nhập vùng biển cùng với tàu phóng lôi của Việt Nam Cộng hòa, bắn phá các cơ sở rađa ở mũi Vinh Sơn và một cơ sở phòng thủ khác ở Cửa Ròn.

Ngày 4/8, hồi 19 giờ Herrick trên tàu Maddox nhận được tin điện của cục An ninh Quốc gia (NSA) cho biết đã nghe trộm được các tin tức về việc có thể Bắc Việt sẽ tấn công. Hai tàu Maddox và C. Turner Joy nổi còi báo động. Binh sĩ trên tàu chuẩn bị chiến đấu. Khoảng 20 giờ, thuyền trưởng Herrick lại yêu cầu Ticonderoga phái máy bay đến hỗ trợ. Chỉ mấy phút sau, rađa phát hiện thêm có ba tàu phóng lôi Bắc Việt nữa đến gần tàu Mỹ. Lúc đó trời nhiều mây, bóng tối dày đặc trên khu vực. Khoảng 22 giờ, những người phụ trách bộ định vị bằng sóng âm phát hiện dấu hiệu có khoảng hai chục tàu phóng lôi nổ súng vào hai tàu máy. Hai tàu dập dềnh quay mũi nhưng các khẩu đại bác trên tàu vẫn nổ súng đều song không thấy mục tiêu cốt để chặn tàu địch. Thuyền trưởng C. Turner Joy khẳng định đã thấy khói đen bốc lên, sau hai tiếng tình hình trở lại bình thường. Các sĩ quan trên tàu Mỹ ước tính đã đánh đắm hai, có thể là ba tàu phóng lôi Bắc Việt.

Thực ra, một cuộc điều tra sau này cho biết không một người nào liên can đến sự kiện có thể khẳng định đã nhìn thấy tàu địch hay nghe thấy tiếng súng nổ. Những vạch sóng mà người phụ trách máy định vị sóng âm không có kinh nghiệm, vội vã cho rằng đã phát hiện thấy tàu địch nhưng thực ra có thể là do sự vận động của chính tàu Mỹ hay một đàn cá heo! Có thể là một cuộc tiến công đã được dự kiến. Có ít chứng cứ khẳng định cuộc tiến công đã diễn ra hay không. Trong một lễ mừng công tổ chức ngày 7/8, sau các cuộc oanh kích đầu tiên của không quân Mỹ diễn ra ba ngày trước đó, Võ Nguyên Giáp chúc mừng cán bộ chiến sĩ hải quân đã đuổi tàu chiến Mỹ ra khỏi hải phận miền Bắc. Ông chỉ có thể ám chỉ đến cuộc tiến công vào ngày 2/8 chống tàu Maddox hoặc sự kiện thứ hai ngày 4/8.

Tại Washington, lúc 9 giờ 20 phút, Tổng thống Johnson được thông báo về sự kiện ngày 4/8 và quyết định trả đũa bằng Chiến dịch Pierce Arrow (Mũi tên xuyên). Ông gặp các lãnh đạo hai đảng ở Quốc hội, thông báo cho họ về các cuộc tấn công miền Bắc bằng không quân sắp xảy ra và ông có ý định yêu cầu Quốc hội thông qua một quyết định theo hướng đó. Tối hôm đó khi Tổng thống Mỹ phát biểu trên đài truyền hình: “Chúng tôi không tìm cách mở rộng chiến tranh” thì các máy bay Crusader F-8, Skyraider A-1, Skyhawk A-4 cất cánh từ hai hàng không mẫu hạm Ticonderoga và Constellation đã xuất kích 64 lần nhằm vào các mục tiêu trên một đoạn dài khoảng 160 km dọc bờ biển vịnh Bắc Bộ. Máy bay Mỹ tấn công và phá hủy, làm hư hại gần một nửa số tàu phóng lôi của Bắc Việt, phá hủy một kho xăng ở Phúc Lợi chứa gần 10% lượng dự trữ chất đốt ở miền Bắc, diệt bảy cơ sở phòng không ở Vinh.

Các sĩ quan Mỹ thừa nhận rằng trong các cuộc bắn phá đó, hai máy bay Mỹ đã bị hư hại và hai máy bay khác bị hạ. Phi công của một trong hai chiếc bị hạ là Everett Alvarez. Bị gãy lưng trong khi dù bật khỏi máy bay, ông rơi xuống mặt nước và bị bắt làm tù binh. Ông được thả năm 1973, gần 9 năm sau khi bị bắn rơi. Võ Nguyên Giáp tố cáo Mỹ như một tên “vừa ăn cướp vừa la làng” và khẳng định lực lượng vũ trang của ông đã gây cho địch những thiệt hại nặng nề hơn những gì Lầu Năm Góc đã thừa nhận. Ông nói có 8 máy bay bị hạ và bị hư hại.

Ngày 10/8/1964, Quốc hội Mỹ bỏ phiếu nhanh chóng thông qua nghị quyết Vịnh Bắc Bộ do Tổng thống Johnson yêu cầu, cho phép dùng mọi biện pháp cần thiết để đẩy lùi mọi cuộc tiến công vũ trang chống lại lực lượng của Hoa Kỳ nhằm ngăn cản một cuộc xâm lược khác… kể cả dùng sức mạnh quân sự. Theo thượng nghị sĩ Wayne Morse, nghị quyết này có giá trị như một bản tuyên bố chiến tranh. Tại Thượng nghị viện chỉ có hai nghị sĩ phản đối đó là Wayne Morse, thượng nghị sĩ bang Oregon và Ernest Gruening, thượng nghị sĩ bang Alaska.

Vào cuối năm đó, trong cuộc chiêu đãi kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, Võ Nguyên Giáp nêu rõ phải cảnh giác đề phòng về những nguy cơ can thiệp của Mỹ như cách đây mấy tháng. Ông chúc mừng Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam về những chiến công đầy dũng cảm của quân dân miền Nam. Ông không quên cảm ơn Trung Quốc và Liên Xô về sự giúp đỡ của hai nước này.

Cuối năm 1964, sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ, Võ Nguyên Giáp đẩy nhanh nhịp độ hoạt động ở miền Nam. Ông vẫn hy vọng tránh một cuộc đụng độ không cân sức với người Mỹ trong lúc còn có thể tránh được. Trên cao nguyên miền Trung, Việt Cộng tiếp tục gây áp lực đối với các miền đồng bằng ven biển và vùng rừng núi ở dọc Trường Sơn gần Pleiku và An Khê để hòng cắt miền Nam làm đôi. Võ Nguyên Giáp tính rằng: Mỹ gửi nhiều sư đoàn sang Việt Nam, miền Bắc vẫn có thể giữ được. Hơn nữa, ông sẽ phải đương đầu với 600.000 quân Mỹ tăng cường cho 500.000 lính ngụy của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Ông có thể tập hợp 100.000 quân để giúp đỡ 200.000 quân Việt Cộng mặc dù trình độ chiến đấu rất khác nhau, với các căn cứ vững chắc ở Lào và Campuchia. Ông sẵn sàng chiến đấu ba chọi một nếu cần. Để chuẩn bị, ông phái Sư đoàn 325 rời căn cứ thường trực ở Vinh vào miền cao nguyên Nam Trung Bộ.

Mùa xuân năm 1965, Hà Nội có hai quyết định quan trọng có tính định mệnh. Thứ nhất là, bỏ lỡ cơ hội nhận đàm phán trực tiếp với Hoa Kỳ theo đề nghị bí mật của Liên Xô. Thứ hai là, tăng cường chiến lược miền Nam theo ý kiến của Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh, nói khác đi, gửi quân chính quy miền Bắc vượt vĩ tuyến 17 để tiến hành các cuộc tiến công chiến lược nhằm ngăn chặn Mỹ tăng lục quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Võ Nguyên Giáp phản đối chuyển sang giai đoạn thứ ba là tiến hành tác chiến quy mô lớn ở miền Nam.

Tướng Mỹ William C. Westmoreland đến Việt Nam từ tháng 6/1964 với danh nghĩa Phó Tư lệnh Ủy ban viện trợ Mỹ (USMACV). Sau khi nhậm chức, ông yêu cầu gửi đến miền Nam Việt Nam hai tiểu đoàn lính thủy đánh bộ để bảo vệ căn cứ Mỹ ở Đà Nẵng. Ngày 8/3/1965, quá 9 giờ sáng, lữ đoàn 9 lính thủy đánh bộ Mỹ đổ bộ lên bãi biển Đà Nẵng giương cao cờ Mỹ để gặp các sĩ quan Cộng hòa. Bốn lĩnh Mỹ trương khẩu hiệu có ghi dòng chữ: “Hoan nghênh lính thủy đánh bộ dũng cảm”. Tuy nhiên, lính thủy đánh bộ Mỹ không phải là những kẻ đầu tiên cũng như cuối cùng. Đến lúc đó lực lượng đặc biệt và biệt động Mỹ đã chiến đấu ở Việt Nam được gần 4 năm. Và người Mỹ sẽ còn ở lại cho đến tháng 3/1973. Sáu ngày trước, được Tổng thống Johnson cho phép, không quân Mỹ đã tiến hành Chiến dịch Sấm rền đánh các mục tiêu chọn lọc trên lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tổng thống lấy làm mãn nguyện về cuộc chiến tranh bằng không quân và việc lính thủy đánh bộ Mỹ đến Nam Việt Nam. Ông khẳng định với một trong số cố vấn của mình: “Bây giờ tôi đã nắm chắc được ông Hồ Chí Minh rồi”.

Võ Nguyên Giáp kịch liệt lên án các cuộc đổ bộ của quân Mỹ và cuộc chiến tranh xâm lược đẫm máu ở Nam Việt Nam. Ông nêu câu hỏi: Tại sao Mỹ phái nhiều quân đến Việt Nam như thế? “Ai có quyền trả đũa? […] Bọn đế quốc ở tận bên kia Thái Bình Dương […] hay những người yêu nước Nam Việt Nam thực hiện quyền tự vệ thiêng liêng […] dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam?”. Ông nói tiếp: “Người Mỹ đã tính lầm. Họ tưởng có thể xoay chuyển được tình thế chiến tranh ở miền Nam Việt Nam”.

Trong một thời gian vào năm 1965, chiến tranh có một điểm cân bằng: Đó là lúc lực lượng Quân giải phóng đụng đầu với hải quân Mỹ và quân ngụy. Việc Mỹ đưa ồ ạt những đơn vị lớn lục quân vào Nam Việt Nam khiến Võ Nguyên Giáp không giành được thắng lợi trong tầm tay. Hiệu quả của hỏa lực Mỹ cũng như tính cơ động của quân đội Mỹ là rõ ràng. Trong một bài báo đăng trên tờ Học tập – tờ báo lý luận của Đảng Cộng sản, Võ Nguyên Giáp vạch lại những chiến lược kế tiếp của Hoa Kỳ trong chính sách đối với Việt Nam. Ông thấy có ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất từ 1954 đến 1959, khi Mỹ ủng hộ thành lập Việt Nam Cộng hòa chống cộng sản, giai đoạn thứ hai từ 1960 đến cuộc đảo chính lật đổ Diệm khi Mỹ cố ủng hộ Việt Nam Cộng hòa đang chao đảo, giai đoạn cuối cùng là từ 1963 trong khi tìm người thay thế Diệm đã chết và Mỹ quyết định đóng vai trò trực tiếp trong cuộc đấu tranh chống Việt Cộng và miền Bắc.

Võ Nguyên Giáp khẳng định, ngay các nhà lãnh đạo Mỹ cũng phải thừa nhận họ gặp phải một địch thủ ngoan cường, không thấy tỏ ra một dấu hiệu suy yếu nào. Ông nói tiếp: “Các tướng lĩnh không quân Mỹ không thể dự kiến rằng các máy bay siêu âm, những máy bay hiện đại nhất trên khắp các chiến trường có thể bị những tay súng dân quân Bắc Việt bắn hạ bằng những súng trường và đại liên, bị những đơn vị phòng không và không quân non trẻ của chúng ta quật ngã”, “Nếu ở Algeria quân đội Pháp không thể thắng được một dân tộc có mười triệu dân thì làm sao vài chục nghìn lính Mỹ lại có thể đánh bại được 14 triệu người dân Nam Việt Nam?”. Mấy ngày sau, Võ Nguyên Giáp lại viết trên báo Học tập, cảnh báo cho nhân dân miền Bắc: “Chúng ta phải làm mọi việc để chuẩn bị đánh quân xâm lược Mỹ nếu chúng mở rộng chiến tranh trên cả nước”.

Đây là một mối lo ngại có thật. Võ Nguyên Giáp không thể biết rằng Hoa Kỳ có tự kiềm chế vượt vĩ tuyến 17 hay không. Cuộc chiến tranh bằng không quân và việc Mỹ đưa quân vào miền Nam Việt Nam chính là biểu hiện một cuộc tiến công chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Một vị Tổng tư lệnh nếu không áp dụng những biện pháp nhằm chặn đứng một sự đe dọa như thế ắt là không làm tròn bổn phận. Trong các tỉnh miền Bắc, Võ Nguyên Giáp tổ chức lực lượng tự vệ ở mỗi thôn xóm, mỗi làng mạc, và được trang bị bằng vũ khí do Trung Quốc và Liên Xô cung cấp. Trong trường hợp bị tấn công, tất cả mọi người từ già đến trẻ đều phải chiến đấu đến người cuối cùng. Một nhà bình luận phương Tây đã phân tích mối nguy hiểm của cách phòng thủ như vậy: “Chỉ có một cách duy nhất để đánh bại một dân tộc không đầu hàng. Đó là sự hủy diệt. Chỉ có một cách duy nhất để kiểm soát một lãnh thổ mà ở đó đang nung nấu ý chí kháng chiến. Đó là biến lãnh thổ đó thành hoang mạc. Nếu như ở đó, vì bất kỳ lý do gì khiến không thể áp dụng những cách thức như thế thì chiến tranh chỉ có thể là thất bại”. Dù ý muốn của Curtis LeMay, Tham mưu trưởng Chiến lược của không quân Mỹ như thế nào và phần lớn lực lượng không quân và một nửa sĩ quan không lực đã được huy động, tất cả những người có trách nhiệm trong Chính phủ Hoa Kỳ đều nhất trí từ chối “tạo ra một hoang mạc và gọi đó là hòa bình”, và chính vì thế người ta không bao giờ đo lường được chính xác những khả năng phòng thủ của tướng Giáp.

Ngoài mối lo lắng quân Mỹ có thể đánh chiếm miền Bắc, Võ Nguyên Giáp còn gặp hai khó khăn khác mà ông nhất thiết phải tìm được giải pháp: Làm sao đánh được bộ binh Mỹ bên trong lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa và làm sao bảo vệ miền Bắc chống lại các cuộc ném bom của máy bay Mỹ. Khi chiến tranh bằng không quân của Mỹ bắt đầu, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gần như bị o ép trước sức mạnh áp đảo của không quân Mỹ. Máy bay Mỹ đặc biệt hiện đại tự do lồng lộn một cách an toàn trên bầu trời miền Bắc. Vậy người ta có thể làm gì? “Chúng tôi phải”, Võ Nguyên Giáp nói, “giải quyết những vấn đề đó. Chúng tôi đã học cách sử dụng vũ khí chất lượng kém hơn để giành phần thắng đối với vũ khí tốt hơn, hiện đại hơn. Chúng tôi học cách sử dụng mọi phương tiện kém hơn để giành thắng lợi.”

Võ Nguyên Giáp trở lại những nguyên tắc căn bản của chiến tranh nhân dân: mỗi người ở miền Bắc phải là một bộ phận của mạng lưới phòng không cơ sở. “Trong chiến tranh”, ông nói, “bên nào mạnh hơn sẽ giành được thắng lợi. Đó là phương pháp bí mật của chiến tranh toàn dân – 30 triệu người dân trở thành 30 triệu người lính để đánh Mỹ”. Vậy phòng thủ chống chiến dịch ném bom Sấm rền không phải chỉ là nghĩa vụ của các đơn vị phòng không mà của mọi người nông dân trên đồng ruộng và công nhân trong nhà máy. “Tôi sẽ kể một câu chuyện vui”, Võ Nguyên Giáp nói với một vị khách nhiều năm sau, “tôi có ý nghĩ trong đầu là một súng trường cũng có thể dùng để bắn rơi máy bay. Tôi đã ra lệnh phải làm được như thế. Trong vài tháng đầu, không ai có thể tưởng tượng sẽ làm như thế nào, nhưng sau đó chúng tôi đã học được. Cách thức để đạt được việc đó cũng đơn giản. Cho tới nay, trên mặt đất, chiến sĩ của chúng tôi chỉ nhằm trực tiếp vào máy bay đang bay rất nhanh và ném bom bắn phá. Họ thất bại không đạt mục tiêu là điều không tránh được vì đạn bắn lên thì máy bay đã bay qua mất rồi”.

Rồi có một ai đó, Võ Nguyên Giáp không biết là ai có sáng kiến dùng các nhóm nhỏ có súng tự động và bán tự động bắn đạn như mưa vào một vùng trước khi máy bay đến rất xa. Họ tạo ra những chùm lửa trên trời rồi ngẫu nhiên máy bay địch hạ thấp độ cao, đâm vào và bị giáng những đòn chí mạng. “Sau đó”, Võ Nguyên Giáp nhớ lại, “tôi gặp những người đàn ông, những phụ nữ trong tổ dân quân đã hạ được máy bay bằng súng trường. Tôi đã khen ngợi họ và tặng huân chương cho họ. Tôi hỏi tại sao mọi người lại bắn hạ được máy bay? Một phụ nữ tự hào trả lời, chị không phải là người có học thức cao đâu, chị cũng chỉ học tương đương với lớp 8 thôi nhưng đó là một nữ chiến sĩ thực thụ: Tôi đã theo dõi đường bay của máy bay địch và tôi hiểu được quy luật bay của chúng nó.” Câu trả lời làm ông rất thích thú. “Tôi đã trả lời chị: chị là một triết gia đại tài rồi vì chỉ có các triết gia mới nói đến quy luật. Đối với những người yêu nước như thế, với tư cách cá nhân hay đơn vị tác chiến ở miền Bắc phải quy định một loại huân chương để thưởng cho họ về chủ nghĩa anh hùng. Đó là huy chương Quyết thắng”. Tuy nhiên, Võ Nguyên Giáp hoàn toàn hiểu rằng những phương pháp như thế chỉ là bất đắc dĩ phải làm.

Hơn thế nữa, hàng viện trợ có hiệu quả hơn là máy bay MIG, pháo phòng không và các giàn tên lửa đất đối không do Liên Xô cung cấp. Kèm theo đó là những huấn luyện viên Liên Xô đào tạo phi công, kỹ thuật viên để vận hành máy móc, thiết bị, vũ khí, khí tài mới. Sự giúp đỡ đó nâng cao rõ rệt sức chiến đấu của lực lượng phòng không miền Bắc. Dần dần những pháo thủ phòng không, sĩ quan tên lửa đã biến bầu trời Bắc Việt thành địa ngục lửa và buộc không lực Hoa Kỳ phải trả giá đắt về phi công chết và bị bắt, về máy bay bị bắn rơi hay hư hại, nếu họ còn tiếp tục các cuộc oanh kích. Cuối cùng, Bắc Việt Nam trở thành vùng được bảo vệ tốt nhất trong lịch sử chiến tranh không quân. Võ Nguyên Giáp đã bố trí lưới lửa dày đặc bao gồm 8.000 pháo phòng không các cỡ, 200 giàn tên lửa đất đối không, một hệ thống dò tìm bằng rađa cực kỳ phức tạp, những tên lửa được phóng tập trung có hiệu quả cao. Tính đến tháng 11/1967, không lực Hoa Kỳ đã mất 730 máy bay trong các phi vụ ở miền Bắc Việt Nam. Năm đó, một chứng cớ được đưa ra trước Quốc hội cho biết quân đội Mỹ đã phá hủy cơ sở hạ tầng Bắc Việt Nam trị giá khoảng 320 triệu đôla nhưng với một giá đắt gấp ba những thứ phá hủy được. Chỉ tính riêng những tổn thất bằng máy bay đã hết 911 triệu đôla, không kể hàng trăm phi công Mỹ bị chết và bị bắt làm tù binh.

Nhưng Võ Nguyên Giáp chỉ mới hoàn thành một nửa công việc. Làm cho các cuộc oanh kích ở miền Bắc càng ngày càng gặp nhiều nguy hiểm là chưa đủ vì các chuyến bay của Mỹ vẫn tiếp tục mặc dù ông đã cố gắng hết sức để chống lại. Võ Nguyên Giáp còn phải khắc phục các thiệt hại, phải sửa chữa đường sắt, làm lại cầu, san lấp hố bom, phục hồi giao thông liên lạc bị ngừng trệ. Phải làm được điều đó nếu Võ Nguyên Giáp muốn gửi người và phương tiện chiến tranh ra mặt trận phía Nam. Nhằm hoàn thành nhiệm vụ đó, trong thời gian ngắn nhất, Võ Nguyên Giáp kêu gọi từng đoàn dân công, thanh niên xung phong làm việc cả ngày lẫn đêm không kể vô số lực lượng phụ trợ làm việc nửa ngày. Họ được phân tán làm từng đoạn một, sử dụng những dụng cụ, thiết bị vật liệu chuẩn bị sẵn dọc các con đường huyết mạch. Một lần Võ Nguyên Giáp kể: “Mỗi người một cách nhưng cả nước đều nhất loạt đứng lên đấu tranh vì tự do và độc lập”.

Một tài liệu của CIA lâu nay được giữ kín đã nói lên các cuộc ném bom miền Bắc ít có hiệu quả. “Làn sóng người và phương tiện chiến tranh vẫn liên tục từ Việt Nam đổ sang Lào, vào miền Nam có thể với tốc độ còn nhanh hơn trước… Ít nhất có 200.000 người sửa chữa đường sá, cầu cống, duy trì các đường giao thông chủ yếu. Phạm Văn Đồng đã ca ngợi các cố gắng đó. Khối lượng hàng trung bình hàng ngày đưa vào miền Nam từ nhiều tháng nay đã vượt quá mức trung bình năm 1964”. Không quân Mỹ càng tăng cường số lượng phi vụ của họ thì cố gắng đưa người và hàng tiếp tế của miền Bắc cho miền Nam càng tăng theo.

Đối với Võ Nguyên Giáp, chỉ có một cách đánh bộ binh Mỹ ở miền Nam cần phải học đó là trực tiếp đụng đầu với chúng trên chiến trường. Chẳng mấy chốc điều đó đã xảy ra. Ngày 26/6/1965, tướng Mỹ William C. Westmoreland được Lầu Năm Góc cho phép sử dụng lực lượng trên mặt đất. Hai ngày sau 3.000 lính của Lữ đoàn Không vận 173d có một tiểu đoàn Australia và một đơn vị không vận của quân đội Việt Nam Cộng hòa trợ lực tiến vào vùng chiến khu D cách Sài Gòn 32 km về phía tây bắc để đi tìm Việt Cộng. Đây là lần đầu tiên Mỹ thực hiện chiến thuật Tìm và diệt nhưng chỉ sau ba ngày cuộc hành quân đã chấm dứt vì thất bại không gặp địch, không tìm thấy đơn vị Việt Cộng nào cả. Nhưng Mỹ cũng có một lính chết, chín bị thương trong đó có bốn lính Australia.

Một thử nghiệm đầu tiên về ý chí cũng như về chiến thuật của cả Võ Nguyên Giáp và Westmoreland đã diễn ra tại trận Plei Me từ 19 đến 27/10. Trong thời gian gần đây, các đơn vị quân miền Bắc thường tập kích các trại lực lượng đặc biệt Mỹ ở cao nguyên. Võ Nguyên Giáp có ý định đánh chiếm Tây Nguyên rồi từ đó tiến ra vùng ven biển miền Trung để cắt đôi Việt Nam Cộng hòa trước khi chiếm cả miền Nam.

Võ Nguyên Giáp ra lệnh tiến công trại lực lượng đặc biệt của Mỹ ở Plei Me cách Sài Gòn khoảng 350 cây số về phía bắc có 400 lính miền núi cao nguyên và 12 lính Mỹ. Khi quân Việt Nam Cộng hòa tiến lên Plei Me để đỡ đòn cho Mỹ dưới ô bảo vệ của máy bay lên thẳng, quân phòng thủ trại Plei Me nhờ tiếp viện của quân đội Cộng hòa và máy bay Mỹ yểm trợ đánh lui các đợt xung phong liên tiếp của Trung đoàn 33 của Giáp. Phía đối phương không phải là lính Việt Cộng mặc quần áo đen mà là quân đội chính quy từ miền Bắc vào mặc quân phục kaki, đội mũ cứng ngụy trang dưới các đám cỏ voi, trang bị bằng súng tự động AK47 của Liên Xô, đeo túi đầy lựu đạn cán gỗ. Một số đơn vị trợ chiến có súng liên thanh 12,7 mm và súng phóng rốc két RPG-2. Cuộc bao vây trại Plei Me kéo dài gần một tuần lễ cho đến khi tướng Westmoreland ra lệnh cho Sư đoàn Kỵ binh không vận số 1 mới từ Mỹ sang lên Plei Me ứng cứu. Được 435 trực thăng chở, lính sư đoàn kỵ binh Mỹ và lính Cộng hòa nhờ hỏa lực áp đảo đã đẩy lui được đối phương phải rút ngày 26/10. Chu Huy Mân quyết định rút quân về “đất thánh” Ia Đrăng ở tây nam Pleiku gần biên giới Campuchia – một vùng hẻo lánh mà quân Mỹ và lính Cộng hòa chưa bao giờ dám vào. Hai trung đoàn bộ binh của Võ Nguyên Giáp thuộc Sư đoàn 325 trong đó nhiều người đã chiến đấu ở Điện Biên Phủ đang trú quân ở đây và đang bắt đầu tập hợp lại.

Chỉ có các triết gia mới nói đến quy luật

Một trận đánh ác liệt hơn đã diễn ra tiếp theo trận đụng độ ở Plei Me. Westmoreland ra lệnh cho Sư đoàn Kỵ binh không vận số 1 truy kích quân của Võ Nguyên Giáp đến tận Ia Đrăng – một vùng vừa xa vừa hoang vắng tưởng như không thể vào được. Westmoreland có ý định tiêu diệt “đất thánh” và loại trừ các đơn vị tác chiến ở vùng núi quanh đó. Cuộc giao chiến kéo dài suốt một tuần từ 14 đến 20/11/1965, được biết đến với tên: Trận giao chiến Ia Đrăng. Cho tới nay chưa có trận giao chiến nào ác liệt và đẫm máu như thế. Hai bên đánh giáp lá cà. Quân của Võ Nguyên Giáp cố giữ một căn cứ tiếp tế quan trọng. Các cựu chiến binh Điện Biên Phủ đã đối mặt với những lính bộ binh Mỹ còn rất trẻ chỉ cách họ có vài mét.

Ngày 14/11, 430 lính của Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 7 bộ binh Mỹ đã mở cuộc tiến công trực thăng vận tải tại một bìa rừng đầy những tổ mối, bên ngoài tưởng như không có người. Thực tế, lính Mỹ đã rơi vào ổ phục kích của một lực lượng quan trọng của Võ Nguyên Giáp. Từ trên đỉnh núi Chư Pông, quân Bắc Việt đã theo dõi từng bước tiến quân của bộ binh Mỹ. Tiếp đó là cuộc giao chiến dữ dội đến mức những lực lượng ứng cứu phải hạ trực thăng đến một quãng cách xa rồi đi bộ vào. Quân Mỹ phải gọi cả máy bay B-52 từ đảo Guam đến trợ chiến. Ngày 17/11, Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 7 bộ binh Mỹ trên đường đi ứng cứu đã rơi vào ổ phục kích. Đây là quân của Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 66 và của Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 33 quân chính quy Bắc Việt. Chỉ trong một ngày, gần một đại đội lính Mỹ bị tiêu diệt trong một trận có thể nói là ác liệt nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam. 155 lính Mỹ bị chết và 124 người bị thương. Số còn lại trụ được ở vị trí nhờ yểm trợ của trọng pháo và máy bay đến oanh kích.

Cuối cùng Võ Nguyên Giáp ra lệnh rút lui về đất thánh ở Campuchia. Việc Westmoreland phải dùng trực thăng để chở quân chiến đấu đã đe dọa nghiêm trọng sự an toàn của Quân giải phóng. Quân lính Bắc Việt chưa bao giờ phải đối phó với chiến thuật trực thăng và chiến thuật họ đã áp dụng đối với quân Pháp trước đây không có giá trị gì với quân Mỹ hiện nay.

Võ Nguyên Giáp đọc báo cáo của Chu Huy Mân từ miền Nam gửi ra với sự ngạc nhiên ngày càng tăng. Chu Huy Mân kể lại những chuyện kỳ diệu về chiến thuật trực thăng vận của Sư đoàn kỵ binh bay số 1 có thể chuyên chở quân ứng cứu cùng với lựu pháo 105 mm và đạn dược trong không trung bên trên các cánh rừng. Trong một trận đánh kéo dài 24 tiếng đồng hồ, pháo binh địch đã bắn 33.000 đến 65.000 trái pháo. Trong trận đánh sư đoàn Mỹ chỉ chở đại bác bằng đường bộ có một lần, còn 66 lần khác thì chở bằng đường không. Trực thăng chở cả một tiểu đoàn bằng 40 chuyến bay, cùng với 13.257 tấn thiết bị chỉ dùng trong một trận. Lính Mỹ có vẻ như muốn di chuyển đi đâu tùy ý, phát hiện được các kho chứa lương thực, cả bệnh viện ngầm dưới đất và chỉ huy sở… Chưa có cách nào đối phó hiệu quả với sức mạnh đầy ấn tượng đó, Võ Nguyên Giáp đành ra lệnh rút quân do thương vong lớn. Khi vào trận, các đơn vị của Sư đoàn Kỵ binh không vận số 1 mất 300 người và số bị thương nhiều hơn thế trong một trận đánh mà theo CIA phân tích là một trận thất bại đối với Mỹ. Chiến tranh đã đi vào bước ngoặt. Cuộc xung đột đã hoàn toàn trở thành một cuộc chiến tranh của Mỹ.

Cả hai bên đối thủ đều học tập được rất nhiều ở trận chiến Ia Đrăng. Westmoreland càng vững tin hơn ở quan điểm của mình và các sự việc đã thuyết phục ông rằng tiến hành một cuộc chiến tranh tiêu hao với các đơn vị lớn là cách đảm bảo chiến thắng. Tiến hành chiến tranh ở trên đất địch. Khi tướng Westmoreland được bổ nhiệm chỉ huy quân đội Mỹ ở Việt Nam, ông có khoảng 23.000 cố vấn thuộc quyền điều động của ông. Chẳng bao lâu, ông có thêm trong tay 8.600 lính thủy đánh bộ, 20.000 lính hậu cần, công binh và 40.000 lính chiến. Cuối năm 1965, quân số dưới quyền chỉ huy của ông là 181.000 người, đến cuối năm 1966 con số đó đã lên đến 385.000 người! Nhưng ông vẫn xin thêm quân. Ông nghĩ phải bơm thêm quân ồ ạt hơn nữa mới hy vọng ngăn chặn được Việt Cộng và kết quả ở Ia Đrăng chứng tỏ là có thể được. Giải pháp cho các khó khăn của ông là tính cơ động, là quân số hùng hậu và sức mạnh hỏa lực.

Võ Nguyên Giáp lại có cách phản ứng khác. Trong số các nhận xét của ông có một điều đã thuyết phục ông là lính Mỹ tuy quân số nhiều, tính cơ động cao nhưng có nhiều cái phải sợ: mặt trời đem lại cái nóng nung người, rừng rậm đầm lầy, muỗi độc, sốt rét và người Việt Nam bình thường kể cả cụ già và con trẻ. Vậy cần phải khai thác bằng được cách này hay cách khác những thứ đang làm cho lính Mỹ run sợ khi phải đối mặt. Khi đã nhận ra những mặt yếu của quân Mỹ thì chỉ còn phải rút ra bài học. Hoàng Anh Tuấn, sau này là Thứ trưởng Ngoại giao đã kể lại những cuộc tranh luận nảy lửa giữa các cán bộ của Võ Nguyên Giáp: “Khi người Mỹ các anh đã vào cuộc chiến”, ông nhớ lại, “thì chúng tôi bỏ hết thời gian để cố hình dung xem các anh chiến đấu như thế nào… Chúng tôi thường xuyên nói với nhau về chuyện ấy. Đó là vấn đề sinh tử chứ không phải chuyện chơi. Mật độ cao của các cuộc ném bom và tính cơ động của quân đội Mỹ là mối lo lắng lớn nhất của chúng tôi… Chúng tôi đã bị tổn thất rất lớn… Làm sao bảo tồn được lực lượng mà vẫn tiếp tục tấn công?”

Tướng Nguyễn Xuân Hoàng đã giải thích cho một người phỏng vấn ông: “Chúng tôi không thể lấy ý chí thay cho thực tiễn… khi các anh đổ Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 nhảy vào cuộc chiến… Quả thực chúng tôi rất đau đầu để cố suy nghĩ xem phải làm gì. Tướng Chu Huy Mân và bản thân tôi lúc đó đang ở sát mặt trận Ia Đrăng và nhiều lần chúng tôi chỉ cách quân Mỹ có hai bước”.

Thế rồi những phân tích bắt đầu. Tướng Nguyễn Xuân Hoàng thừa nhận quân đội Mỹ có tính cơ động cao: “Với trực thăng các anh có thể đi sâu vào hậu phương của chúng tôi mà không có tín hiệu gì báo trước. Và như thế là rất có hiệu quả”. Rồi ông nhận xét: “Nhưng quân đội các anh không bao giờ thật sự chuẩn bị chu đáo. Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 của các anh xuất kích với lương thực trong một ngày và đạn dược trong một tuần. Họ gửi quần áo bẩn về giặt tại Sài Gòn. Họ lệ thuộc vào nước uống trong bi đông do trực thăng chở tới”. Ông so sánh với hoàn cảnh của quân đội ông: “Tính cơ động duy nhất của chúng tôi là đôi chân, vì vậy chúng tôi phải… làm thế nào để lính các anh vốn lệ thuộc vào trực thăng không thể, nếu chiến đấu trong cùng một điều kiện như chúng tôi: đi bộ ở trong rừng”.

Hoàng Anh Tuấn tiếp tục câu chuyện, kể với chúng tôi: “Chúng tôi đã nảy ra ý kiến là cách tốt nhất để đánh lại quân Mỹ là “nắm thắt lưng địch mà đánh”, áp sát lại gần vị trí các anh để pháo binh và hỏa lực không quân của các anh không làm gì được chúng tôi. Kết quả thật thú vị. Các lực lượng hậu cần của chúng tôi ở càng xa kẻ địch thì chịu nhiều thiệt hại hơn các đơn vị ở mặt trận sát bên cạnh địch”.

Tiếp sau các cuộc thảo luận với nhiều đồng đội khác, cuối cùng Võ Nguyên Giáp đi đến kết luận: “Chúng tôi có thể đánh và đánh bại quân Sư đoàn Kỵ binh không vận số 1… Các anh áp dụng chiến thuật dựa trên tính động cơ của trực thăng coi như một chiến lược đem lại “thắng lợi”. Trong trận Ia Đrăng, Võ Nguyên Giáp nói: “Chúng tôi cũng gặp khó khăn về nước và lương thực. Chúng tôi không có trực thăng. Chúng tôi phải vào rừng để tìm kiếm cái ăn, tìm các mạch suối để có nước uống. Lính bộ binh của chúng tôi phải rất sáng tạo”. Ông giải thích điều đã học được: “Người Mỹ có một sức mạnh đáng gờm, cực kỳ cơ động và rất linh hoạt, có thể tấn công bất ngờ, dựa vào hỏa lực mạnh. Nhưng họ không hiểu rằng lính của chúng tôi gần như chỗ nào cũng có mặt và họ khó mà bất ngờ chộp được chúng tôi”.

Với binh lính có mặt “gần như khắp nơi”, Võ Nguyên Giáp có một dạng cơ động khác cho phép cân bằng với lợi thế của trực thăng dành cho quân đội Mỹ. Tướng Nguyễn Xuân Hoàng giải thích thêm: “Nhân dân, Việt Cộng và quân đội chính quy là một, ba thành phần đó không thể tách rời. Nếu có lúc nào các anh thắng được một thành phần thì thành phần kia sẽ tiếp tục chiến đấu”. Võ Nguyên Giáp xác nhận: “Người Mỹ rất mạnh về vũ khí hiện đại nhưng chúng tôi lại mạnh ở cái khác. Chiến tranh của chúng tôi là chiến tranh nhân dân, toàn thể nhân dân tham gia. Chiến trường của chúng tôi có thể ở khắp nơi cũng như không cố định ở một nơi nào do sự lựa chọn của chúng tôi”. Ông nhấn mạnh lại: “Có mặt ở khắp nơi là biểu hiện cao nhất của tính cơ động”.

Tướng Trần Công Mân cũng có ý kiến đồng nhất với cấp trên của mình: “Các lực lượng chính quy nếu so với quân đội của các anh thì ít hơn nhưng tất cả mọi người dân đều có thể chiến đấu được với bất cứ cái gì có trong tay. Ví dụ tại Đà Nẵng, chúng tôi hiếm mà có trên một trung đoàn quân chính quy. Thế mà tại sao các anh không thắng được chúng tôi? Bởi vì chúng tôi có hàng vạn dân quân du kích tự vệ, bộ đội, cán bộ địa phương tại chỗ làm các công việc phụ trợ khác: trinh sát, đặt mìn, do thám, dân vận, địch vận… Không có lực lượng tự vệ tại chỗ, chúng tôi không thể nào đuổi được các anh ra đi. Nếu người ta nói phải đánh căn cứ không quân Đà Nẵng, phá hủy máy bay thì chúng tôi cần có bao nhiêu người mới vừa? Nhiều sư đoàn phải không? Ấy thế mà chúng tôi đã làm được chỉ với… 30 người – 30 người thôi! Đó là một hình thức mới của chiến tranh và không thể có chiến tranh theo hình thức đó mà không có lực lượng tự vệ tham gia…”.

Võ Nguyên Giáp suy nghĩ về tính cơ động của người Mỹ và kết luận: “Ngay cả những vũ khí tinh xảo như trực thăng cũng có nhược điểm. Người Mỹ tin vào các cuộc ném bom. Lòng tin ấy là gót chân Asin của họ. Các anh ném bom trước rồi mới cho trực thăng hạ cánh, tưởng rằng các cuộc ném bom của mình đã tiêu diệt hết lực lượng kháng cự của chúng tôi và trực thăng sẽ không có gì phải lo lắng cho sự an toàn của họ”. Vậy mà khi các lực lượng của Võ Nguyên Giáp nghe thấy tiếng trực thăng, “họ được lệnh báo động và chuẩn bị chiến đấu”. “Trong lúc Mỹ ném bom để dọn bãi đáp trực thăng”, ông nói, “lực lượng của chúng tôi xuống địa đạo và hầm ngầm boong-ke để trú ẩn và chúng tôi bị thiệt hại rất ít. Khi các máy bay trực thăng đổ quân và vũ khí, khí tài xuống đất, đó là lúc chúng tôi bật dậy khỏi hầm hào và bắt đầu bắn trả”. Rồi như để nói riêng với người trước mặt, ông nhấn mạnh: “Ở Việt Nam, chỉ huy của các anh không bao giờ ý thức được rằng sức mạnh đến đâu cũng có giới hạn”.

Đó cũng là điều tướng Nguyễn Xuân Hoàng đã nói với chúng tôi, nhưng điều ông nói ra phản ánh quan điểm của Võ Nguyên Giáp. Nói chuyện với một nhà báo Mỹ, Nguyễn Xuân Hoàng miêu tả ở Việt Nam phải vật lộn với những khó khăn như thế nào: “Bởi vì các anh lệ thuộc vào pháo binh, các anh phải xây dựng các công sự để bắn và không bao giờ ra ngoài chu vi của các công sự đó. Mỗi khi xây dựng thì những công sự đó trở nên kiên cố. Vì vậy, chúng tôi phải biết cách làm sao tránh được tầm pháo của các anh hoặc chúng tôi phải làm sao tìm được điểm yếu mà các anh không thể lợi dụng được nữa. Ngoài ra, các anh ít biết chúng tôi ở đâu và các anh ít xác định được mục tiêu rõ ràng. Bởi vậy, chỗ mạnh của các anh chẳng giúp được gì và các anh để phần lớn hỏa lực mạnh của các anh bắn vu vơ vào rừng”. “Kết quả là”, Nguyễn Xuân Hoàng nói, “các anh đã rơi vào bẫy của chúng tôi. Chúng tôi dùng du kích để chia cắt lực lượng khiến các anh không thể tập trung được để đối phó với quân chính quy của chúng tôi và lợi thế của các anh bị phí phạm vô ích”.

Tướng Nguyễn Xuân Hoàng kể lại mặc dù cũng có lúc thất bại, đôi khi bị thiệt hại nặng “nhưng chúng tôi lúc nào cũng giành thắng lợi trong chiến tranh. Thời gian ủng hộ chúng tôi. Chúng tôi không cần thắng các anh về quân sự, chúng tôi chỉ làm sao không để bị thua. Mỗi chiến thắng của các binh lính dũng cảm của các anh không nghĩa lý gì, không làm thay đổi được so sánh lực lượng hay làm cho các anh đi gần đến chiến thắng”.

Võ Nguyên Giáp đã nói lời cuối cùng: “Giữa tháng 12/1966, có cuộc thảo luận giữa các nhà chiến lược Mỹ về tỷ số giữa sức mạnh của quân đội và vũ khí phải duy trì bao nhiêu là đủ để giành thắng lợi trong chiến tranh”. Ông nhấn mạnh: “Mỹ không hiểu gì về đặc điểm của chiến tranh nhân dân, trong đó mỗi người dân, nam cũng như nữ, lúc nào cũng có thể trở thành người lính quyết tâm chiến đấu, hiểu rõ địa hình khiến họ có tinh thần sáng tạo và anh hùng”. “Những ai đấu tranh cho tự do của đất nước mình”, ông nói, “đều có thể có những kỳ tích huyền thoại. Không có gì phải nghi ngờ nếu những người lính Mỹ phải chiến đấu để bảo vệ đất nước họ thì họ cũng có thể làm nên những điều kỳ diệu. Nhưng ở Việt Nam họ bị trói chân trói tay và ở mọi phía người ta đều chống lại họ”. Ông nói thêm: “Và Chính phủ Mỹ không biết phải tiếp tục chiến tranh như thế nào.

Họ có phải đưa quân vào vùng đồng bằng sông Cửu Long không? Hay tăng cường lực lượng Mỹ dọc vĩ tuyến 17? Tăng cường ném bom miền Bắc? Tăng cường phòng thủ Sài Gòn? Rút quân khỏi Tây Nguyên hay cố sức bám Tây Nguyên? Ông nói: “Đó chỉ là những vấn đề trong nhiều vấn đề khác khiến quân địch phải băn khoăn, day dứt không tìm ra lối thoát. Chúng tiếp tục mối hy vọng hão huyền rằng cần thêm vài sư đoàn nữa, ném bom nhiều hơn nữa, nhiều na-pan, nhiều hơi độc hơn nữa để bắt nhân dân Việt Nam phải quỳ gối”. Ông yêu cầu người Mỹ hãy mở mắt. Ông kết luận: “Chúng tôi sẽ thắng!”

Trong khi cố giải thích sự kiện ngay sau đó, Võ Nguyên Giáp phân tích kinh nghiệm trận Ia Đrăng rút ra sự việc căn bản. Quân Mỹ đã gây những tổn thất nghiêm trọng cho các đơn vị của ông. Chưa đến lúc đề cập đến giai đoạn ba của chiến tranh nhân dân. Phải tiến hành chiến tranh lâu dài để đè bẹp quân địch. Ông đã nhấn mạnh nhiều đến điểm này. Bây giờ ông đã tìm thấy chứng cớ. Hoa Kỳ sẽ phải gánh chịu “thất bại không thể tránh khỏi” mà không quan tâm đến quy mô tham gia của quân đội. Tháng 1/1966, Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Nhưng điều đó không phải do thắng lợi của Việt Nam trên chiến trường. Điều đó xảy ra vì ưu thế của quân Mỹ có giới hạn và nhược điểm của chúng là căn bản”.

Trong những ngày 27 và 28/4/1966, phát biểu trong một phiên họp Quốc hội, Võ Nguyên Giáp bình luận về diễn biến chiến tranh và cho rằng một cuộc chiến tranh quy ước chống Mỹ là vô ích. Ông nhấn mạnh miền Bắc phải trở về giai đoạn một, tức là tạm thời trở lại với các kỹ thuật của chiến tranh du kích. Ngày 22/12, ông cùng với Lê Duẩn dự lễ kỷ niệm thành lập quân đội; cùng trong tháng, ông trả lời phỏng vấn của Decornoy, phóng viên báo Le Monde. Trong cuộc trả lời phỏng vấn suốt hai tiếng đồng hồ, Decornoy thấy ông trong trạng thái tinh thần vui vẻ, phấn chấn phát biểu các luận điểm vốn được ông ưa thích một cách say sưa liền một mạch, thậm chí không ngừng lại ngắt hơi. Không cần những luận điệu cau có, gắt gỏng, Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ thắng về quân sự, về chính trị chống lại Chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Mặt tươi tỉnh, đôi khi phá lên cười, ông nói một cách văn vẻ bằng tiếng Pháp cực kỳ tế nhị và phát triển ý nghĩ của mình với một lôgic và một tài năng không chê vào đâu được.

Trong lúc cuộc tranh luận về chiến lược tiếp tục diễn ra tại các hành lang của Bộ Chính trị ở miền Bắc, những tháng tiếp theo sẽ là một dịp thử thách đối với Võ Nguyên Giáp.

<<Chương 17 “Tuyệt đối bí mật và an toàn là khẩu hiệu của chúng tôi” Chương 19 “Washington không thể nhìn thấy cuối đường hầm” >>

Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Cờ lau dựng nước

Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt