Chiến thắng bằng mọi giá
Chương 7 “Hoan nghênh các bạn người Mỹ”
Chương 7 “Hoan nghênh các bạn người Mỹ”
Trong lúc thiếu tá Allison Kent Thomas, Đội trưởng đội Con Nai của OSS đang lơ lửng dưới cánh dù, ông đã nhìn thấy rừng già, mỗi lúc một xô dần đến như chộp lấy ông. Ông kéo mạnh dây dù mong lái sang phía cách đồng trống để hạ dần độ cao trước khi tiếp đất. Không có kết quả. Dù vẫn rơi xuống đám cây rậm rạp. Ông đành để treo mình trên cành cây cao khoảng hơn chục mét cách mặt đất. Hai đồng đội của ông may mắn hơn. Họ tiếp đất không chút khó khăn. Binh nhất Prunier và thượng sĩ Zielski từ dưới đất nhìn lên ông, rồi Zielski nói vọng lên: “Thiếu tá, không có đủ ba mươi sáu việc để làm đâu! Kéo mạnh dù dự phòng đi!”. Thomas lấy tay sờ vào cái vòng tròn ở vùng bụng nhưng không may nó trượt khỏi cái vỏ bằng vải và chiếc dù dự bị chưa kịp mở ra đã rơi xuống đất. Ông loay hoay tự gỡ khỏi dù chính, buộc dây dù của chiếc dù phụ vào cành cây và trượt dần xuống đất. Lúc đó khoảng sau 6 giờ tối ngày 16/7/1945. Quân Mỹ đã đặt chân đến Đông Dương.
Một đám đông người đã tập hợp để đón ông. Thomas nhận ra trung úy Dan Phelan của cơ quan Không trợ mặt đất AGAS đã nhảy dù từ trước đó mấy tuần đứng lẫn trong đám người lố nhố mà ông ước chừng khoảng hai trăm người. Rồi một người có nét châu Á lại gần thiếu tá Thomas và nói với ông bằng tiếng Anh hoàn hảo: “Chào ông, ông mạnh khỏe chứ? Chúng tôi đón ông đây”. Đó là Frankie Tan, người của nhóm tình báo Anh - Mỹ GBT đang hoạt động bí mật ở Đông Dương. Cách đây hơn ba tháng F. Tan đã đi với Hồ Chí Minh từ Trung Quốc về đây.
Tan, Phelan dẫn Thomas đến chỗ ở bên sườn núi. Đó là một căn nhà bằng tre lợp lá cọ trong đó có sẵn một sạp nứa cao hơn mặt đất vài chục phân làm giường. Bước vào nhà ông đi qua một vòm lá trên đó treo khẩu hiệu có dòng chữ: “Hoan nghênh các bạn người Mỹ!”
Thomas, Zielski và Prunier được giới thiệu với Hồ Chí Minh: “Mr. C. M. Hoo”. Họ được tiếp đón rất nồng nhiệt. Bị sốt rét, kiết lỵ và cũng có thể thêm bệnh nhiệt đới Đenghơ, Hồ Chí Minh vừa cùng với Tan đi bộ một chuyến dài ngày từ Trung Quốc về. Đêm đầu tiên, toán Con Nai được thết đãi thịnh soạn có cơm ăn với măng tre, thịt bò rán và bia Hà Nội, chiến lợi phẩm sau một trận phục kích một đoàn xe Nhật. Nằm trên sạp nứa trong căn lán, Thomas có cảm tưởng như sống lại những đêm cắm trại giữa rừng khi còn hoạt động hướng đạo sinh. Nhưng ông còn nghĩ đến nhiệm vụ phải hoàn thành.
Người ta giao cho Thomas tổ chức một đội du kích độ 50 đến 100 người. Vũ khí trang bị là những khẩu tiểu liên, súng lục và chất nổ chứa trong chiếc hòm nhỏ được thả dù cùng với ông. Toán du kích này được huấn luyện xong có nhiệm vụ tấn công các đoàn xe lửa chở lính và vật liệu chiến tranh của Nhật từ Việt Nam về Trung Quốc và chặt đứt con đường xe lửa Hà Nội - Lạng Sơn. Đây là một hoạt động phối hợp nhằm yểm trợ cho cuộc hành binh Carbonado mà mục tiêu là ngăn cản sự di chuyển của lực lượng Nhật ở Việt Nam nhằm khóa chặt con đường vào Trung Quốc từ phía nam trong giả thuyết Mỹ sẽ nhảy dù xuống miền nam Trung Quốc để lập một căn cứ đầu cầu ở đây để đổ bộ lên đất Nhật. Nhiệm vụ thứ hai của Thomas là chỉ điểm các mục tiêu như các doanh trại, kho tàng quân sự của Nhật trên đất Đông Dương để máy bay Mỹ ném bom và gửi về bộ chỉ huy OSS ở Côn Minh mọi tin tức thu thập được về hoạt động của quân Nhật ở Đông Dương.
Phải đợi đến sáng hôm sau Thomas mới có thì giờ quan sát xung quanh. Trại quân của Việt Minh đặt trên sườn đồi trong khu rừng nứa đầu hẻm núi đi vào thôn Kim Long, chỉ cách lán của Hồ Chí Minh có vài mét. Xa xa ở phía tây có khu vực thả dù của OSS. Đó là một thung lũng bằng phẳng xung quanh có núi rừng bao phủ, trong đó có thôn Kim Long mà nay được Việt Minh đặt tên là Tân Trào. Tất cả mọi người nói chuyện với ông đều thể hiện tinh thần chống phát xít dù đó là quân Nhật hay quân Pháp. Khi trực tiếp nói chuyện với “Mr. Hoo”, Hồ Chí Minh nói rằng ông mong có nhiều đội du kích được trang bị vũ khí tốt, sử dụng vũ khí mới thành thục và trong tương lai ông sẽ gửi các dội du kích đó vào tận Sài Gòn. Thomas nói tiếng Anh với Hồ Chí Minh, còn nói tiếng Pháp với Võ Nguyên Giáp.
Hồ Chí Minh nói ông có 3.000 người mang súng, tổ chức thành từng đội 15 đến 20 người. Nhưng Thomas nhìn thấy trong vùng chỉ có khoảng 200 du kích mang súng trường của Pháp, đặc biệt là đại liên Bren, tiểu liên Sten, súng liên thanh và cạc-bin. Qua điện đài Thomas yêu cầu đại bản doanh OSS ở Côn Minh gửi thêm súng liên thanh tự động, hai súng cối 60, bốn bazôca, tám đại liên Bren, 20 tiểu liên, 20 súng lục Colt 45 và một ít ống nhòm.
Số lượng vũ khí đó được đưa đến bằng ba chuyến dù cùng với vũ khí nhẹ do Việt Minh tự sản xuất trong các xưởng máy thô sơ trong rừng, quân đội của Võ Nguyên Giáp sẽ chẳng mấy chốc có trang thiết bị đầy đủ để gây ấn tượng với dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại: “Nhìn đại đội đứng thẳng hàng khá ngay ngắn mang súng mới có lưỡi lê sáng loáng, chúng tôi tràn ngập niềm tin và đầy phấn khởi”. Ông muốn có càng nhiều người càng tốt tận mắt nhìn thấy những đơn vị được trang bị vũ khí mới. Ông viết: “Bất cứ nơi nào họ đến, đồng bào nhìn thấy cũng đều hoan hô chào mừng!”
Không quen với tiếng nói và những tế nhị chính trị của người châu Á, thiếu tá Thomas gửi về đại bản doanh ở Côn Minh những tin tức sai lạc về Việt Minh. Một phần cũng do phiên dịch Henry Prunier, với một nhúm tiếng Việt mới học, nên anh chàng này cũng chẳng giúp được bao nhiêu! Theo Thomas, “đó là một chàng trai dũng cảm hay giúp đỡ mọi người nhưng không phải là phiên dịch”. Thomas hiểu biết rất ít về Việt Nam, về mục tiêu của phong trào Việt Minh còn Dan Phelan, Frankie Tan thì bảo đảm với Thomas rằng Hồ Chí Minh không phải là cộng sản. Theo đúng lời của Thomas: “Phelan gửi một thông điệp qua điện đài về AGAS nói rằng Hồ Chí Minh xứng đáng được tín nhiệm và cần ủng hộ ông. Tan cũng vậy, không ngớt lời ca tụng Hồ Chí Minh, nhưng không bao giờ ám chỉ rằng ông là một người cộng sản”.
Tuy vậy, Thomas đã trông thấy một lá cờ đỏ phấp phới bay ở gần trụ sở chính của Việt Minh. Đến được mấy ngày, Thomas hỏi thẳng Hồ Chí Minh về màu sắc chính trị của ông như thế nào. Lịch sự, dứt khoát, Hồ Chí Minh trả lời Việt Minh bao gồm rất nhiều đảng phái chính trị. Trong những ngày đầu Thomas cố gắng tìm hiểu tình hình ở đây, dần dần ông biết và yêu quý nhiều cán bộ Việt Minh. Chính vì lý do đó, ông gửi tiếp một bức điện về Côn Minh nói rằng: đây là một nhóm không cộng sản, không bị cộng sản kiểm soát cũng không phải do cộng sản chỉ huy. Theo ông, “họ chỉ tìm kiếm tự do và những cải cách để thoát khỏi sự khắc nghiệt của người Pháp”. Nguyện vọng độc lập của họ là điều không phải bàn cãi. Họ không giương cao ngọn cờ cộng sản mà chỉ muốn nói lên nguyện vọng chung của toàn thể nhân dân nước họ.
Từ 26 đến 30/7, theo một toán Việt Minh, Thomas đi trinh sát trong vùng hy vọng tìm được một chỗ bằng phẳng để những máy bay nhẹ như kiểu Piper L-5 có thể hạ và cất cánh được. Ông cũng muốn nhân dịp này quan sát hoạt động của Nhật trong khu vực. Cả hai việc đều đạt mục đích. Chẳng những ông tìm được chỗ có thể cải tạo thành đường băng mà chỉ cần lội qua khu vực đó, đi chừng một cây số là đến một đồn tiền tiêu của Nhật. Cứ mỗi bước đi gặp dân là ông được đón tiếp rất nồng hậu. Ông ghi lại trong nhật ký của mình: “Chúng tôi được uống cà phê pha rượu, được uống chè pha mật ong. Chuối, dứa, chanh tươi, trứng gà, vịt, bò lợn, nhiều loại rau, măng tre, xà lách, một thứ như khoai tây địa phương và ớt”. Ông cũng được thử thứ nước chấm đặc biệt của người An Nam làm từ cá ướp gọi là nước mắm, khiến ông có thể được xem như là quân nhân Mỹ đầu tiên được nếm thử thứ nước chấm “độc hại một cách ngon lành” đó. Ngày 30/7 ông quay về khá muộn nên ông và những người cùng đi phải đốt đuốc mới thấy đường mòn về trại.
Về đến nơi ông đã thấy những thành viên còn lại trong nhóm Con Nai đang đợi. Họ mới nhảy dù xuống hôm trước. Đội trưởng đội tăng cường là thiếu úy René Defourneaux cũng có mặt. Anh này sinh ở Pháp lấy tên Mỹ là Douglas. Biết Việt Minh ghét Pháp nhưng anh không thể che giấu hoàn toàn được giọng Pháp trong tiếng Mỹ của mình. Ngoài ra còn có trung sĩ nhất Lawrence Vogt, huấn luyện về vũ khí; trung sĩ Aaron Squires, nhiếp ảnh của đội và là người tài xoay xở và binh nhất quân y Paul Hoagland.
Thomas được biết rằng Hoagland đã thấy Hồ Chí Minh ốm khi mới đặt chân đến Kim Long. Ông bị sốt cao, người run cầm cập, do chưa kịp lấy lại sức trong chuyến đi bộ dài ngày qua rừng. Hoagland đã báo cáo với Defourneaux và kết luận rằng nhà lãnh đạo Việt Minh “không còn sống lâu trên cõi đời này nữa”. Viên đội trưởng bèn ra lệnh cho Hoagland phải tìm mọi cách giúp Hồ Chí Minh chóng khỏi bệnh. Hoagland đã cho uống ký ninh chống sốt rét, thuốc kháng sinh suynphamit và các viên vitamin. Trong vài ngày, bệnh thuyên giảm rõ rệt, Hồ Chí Minh đã gượng dậy được và sắp khỏi. Chắc hẳn là nhờ vào sự chăm sóc của đội Con Nai người Mỹ.
Một sự kiện khác diễn ra khi Thomas trở về là lễ khánh thành ngôi đình của Việt Minh ở Kim Long (Tân Trào). Khá đông người tập hợp ở đó. Thomas và các thành viên của đội Con Nai đều có mặt. Người ta hát những bài của đảng, lắng nghe những bài diễn văn về độc lập và quyền được đi bỏ phiếu của phụ nữ. Có những vở kịch ngắn miêu tả cảnh người Nhật tàn phá đất nước và du kích mai phục đánh lùi các đội tuần tiễu của Nhật. Có những hoạt cảnh khác nói lên sự cần thiết phải giúp đỡ phi công Mỹ buộc phải nhảy dù khi máy bay bị Nhật bắn rơi. Thomas được biết có nhiều phụ nữ phục vụ trong Việt Minh. Ông viết trong nhật ký rằng ít nhất ông gặp hai phụ nữ mang súng. Người ta nói có một cô đã giết đươc một tên gián điệp. Thomas rất xúc động trước hành động như thế vì đối với ông, nhiều cô gái Việt Minh chỉ tầm tuổi các nữ sinh trung học 16, 17 tuổi ở đất nước ông.
Cùng với Võ Nguyên Giáp, Thomas miệt mài và nhẫn nại làm công việc huấn luyện bộ đội Việt Minh. Những ngày đầu tháng 8, Võ Nguyên Giáp tập hợp được 200 người, trong đó Thomas chọn 100 người tốt nhất. Đội Con Nai huấn luyện cấp tốc cho họ, sau đó họ lại ra đi để tổ chức các lớp huấn luyện mới. Ngày 7/8, Thomas và các thành viên trong đội cùng với các học viên huấn luyện đầu tiên rời căn cứ, đến một địa điểm cách đó bốn cây số, ở đó đã có sẵn một trường huấn luyện quân sự của Việt Minh. Chiều hôm sau thiếu tá Thomas, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp ngồi quanh chiếc bàn đặt trong lán của trung úy Dan Phelan để liên hoan mừng sinh nhật của Phelan. Thomas bị chai rượu hồi mê hoặc, anh ta cố uống cạn; khi pha thêm nước, rượu chuyển sang trắng như sữa.
Hôm sau, ngày 9/8 từ 5 giờ 30 phút sáng đến 5 giờ chiều, buổi hội thao diễn ra dưới sự theo dõi chăm chú của Võ Nguyên Giáp. Sáu ngày liên tiếp sau đó, trung sĩ huấn luyện Lawrence Vogt và các thành viên đội Con Nai dạy cho học viên Việt Minh biết cách bắn súng cạc-bin Mỹ M-1 và làm thế nào để sử dụng tốt nhất liên thanh nhẹ, súng cối, lựu đạn, biết bắn cạc-bin, bazôca và tiểu liên Thompson. Thomas ghi nhận rằng các học viên Việt Minh rất trẻ và trước đây họ ít được học cách sử dụng vũ khí.
Các đội viên đội Con Nai reo lên vô cùng vui mừng khi vào lúc 9 giờ sáng ngày 15/8, trung sĩ Zielski phụ trách điện đài bắt được sóng.
Phát thanh viên báo tin các cuộc thương lượng buộc Nhật Bản phải đầu hàng hoàn toàn sắp đến hồi kết thúc. Thomas phát súng cho các học viên và nói có thể ngày hôm sau tất cả mọi người sẽ rời khỏi trại để lên đường làm nhiệm vụ. Thomas cùng Võ Nguyên Giáp sửa soạn rời khỏi căn lán để đi nhưng đúng lúc họ sắp lên đường thì Hồ Chí Minh đến, khẳng định tin vui là Nhật Bản đã chấp nhận đầu hàng Đồng minh vô điều kiện vào buổi chiều.
Nhiều tin tức khác dồn dập bay về. Được biết người Anh sẽ tiến vào miền Nam và người Trung Quốc sẽ vào miền Bắc Việt Nam để tiếp nhận việc đầu hàng của Nhật, tước vũ khí và giải giáp quân đội Nhật. Thomas thấy ngay đó là một tin quan trọng vừa làm nức lòng mọi người nhưng cũng làm những người lãnh đạo Việt Minh đặc biệt lo ngại vì họ đã biết từ lâu rằng người Trung Quốc sẽ thừa dịp này thành lập ở miền Bắc một chính phủ bù nhìn phụ thuộc vào Trung Quốc.
Thomas và Võ Nguyên Giáp trao đổi với nhau, quyết định ngay sáng hôm sau bộ đội Việt - Mỹ sẽ lên đường làm nhiệm vụ. Chỉ còn nửa ngày để chuẩn bị. Những người Mỹ gỡ bạt, dỡ lều, gấp hành lý. Suốt đêm hôm sau họ bắn pháo sáng và pháo hoa để ăn mừng chiến thắng và dạy cho các bạn Việt Nam cùng hô “Híp-híp-híp-hu-ra”. Thomas ghi trong nhật ký: “Đêm đó chúng tôi như một lũ điên dại vì quá sung sướng, không biết đã uống hết bao nhiêu vò rượu gạo mà nhân dân địa phương ủng hộ. Đây là phút chia tay không bao giờ quên… Sáng mai chúng tôi sẽ nhổ trại. Đối với chúng tôi ngày mai là hòa bình, là ngày trở về nhà. Nhưng các bạn Việt Nam thì ngày mai là ngày lên đường chiến đấu”.
Dù sẵn sàng hay không, Võ Nguyên Giáp cũng nghĩ rằng đây là thời cơ tiến công. Cuộc chuyển quân quy mô lớn đầu tiên của quân đội mới thành lập thật sự bắt đầu vào ngày 16/8/1945, chỉ một ngày sau khi nhận được tin Nhật đầu hàng qua điện đài.
Khoảng 2 giờ 30 phút, Võ Nguyên Giáp chỉ huy đoàn quân rời Tân Trào lên đường về Thái Nguyên. Cuộc hành quân không mấy dễ dàng vì bộ đội phải đi qua những con đường mòn dựng đứng trên núi, vượt qua nhiều thác ghềnh, sông suối, người đi sau vịn vào người đi trước, rón rén bước qua từng tảng đá mọc rêu trơn hay đầm lầy. Chiều tối, họ dừng chân qua đêm ở làng Đông Man. Họ đi tiếp ba ngày ba đêm nữa, 17, 18, 19/8 mới đến địa điểm tập kết. Thomas viết: “Đi đến đâu bộ đội cũng được dân làng hoan nghênh nhiệt liệt, phất cờ Việt Minh reo hò hai bên đường hoặc tiến sát hàng quân để nhìn được những vũ khí mới sáng loáng”.
Trong suốt cuộc hành quân Thomas luôn luôn đi bên cạnh Võ Nguyên Giáp, một con người không hề có dáng điệu của một quân nhân. Suốt năm 1945 và có lẽ đến tận năm 1947, tuy là người chỉ huy quân đội nhưng Võ Nguyên Giáp thường không mặc quân phục mà mặc bộ quần áo dân sự kiểu phương Tây màu sáng, đeo cà vạt và mũ phớt màu sẫm. Thomas kể lại: “Trong các cuộc hành quân qua núi rừng đó, có lẽ tôi là người gần gũi ông nhất. Có lúc ông kể cho tôi nghe chuyện người vợ trẻ và người chị vợ của ông đã hy sinh trong nhà tù của Pháp”. Thomas đánh giá ông là con người có học thức, có tài kể chuyện và luôn luôn làm chủ bản thân. Thomas kết luận: “Binh sĩ kính trọng ông và tôi cũng rất quý mến ông”.
Khoảng 3, 4 giờ sáng ngày 20/8 bộ đội Việt Minh bắt đầu tiến công vào Thái Nguyên, cuộc tiến công kéo dài đến ngày 25/8. Thoạt đầu cuộc tiến công không lấy gì quyết liệt. 6 giờ sáng bất thình lình súng các cỡ đồng loạt khai hỏa tạo thành hàng rào lửa bao quanh thị xã. Sau nửa tiếng, tỉnh trưởng ra hàng cùng với 160 lính bảo an. Bộ đội Việt Minh nhanh chóng tước vũ khí đạn dược. Quân Nhật bắn vào bộ đội Việt Minh mỗi khi chúng phát hiện được mục tiêu và tiếng súng vẫn tiếp tục nổ lác đác cho đến chiều và cả đêm. Võ Nguyên Giáp cho những người Mỹ ở đội Con Nai trú trong một nhà gạch chắc chắn ở ngoại ô đối diện với trại lính Nhật.
Khoảng 15 giờ ngày 21/8, Việt Minh tổ chức một đợt tiến công vào trại Nhật. Trong mười phút tất cả các loại súng đồng loạt nổ. Từ súng cổ lỗ của Pháp đến súng Mỹ M-1 và bazôca do đội Con Nai cung cấp.
Bất chấp cường độ của hỏa lực Việt Minh, lính Nhật nấp sau các công sự chắc chắn nên ít bị thiệt hại. Nhân dân thị xã rất phấn khởi ra sức reo hò cổ vũ bộ đội.
Cuộc chiến đấu kéo dài đến ngày 26/8. Cuối cùng, quân Nhật phải đầu hàng. Bộ đội Việt Minh diễu hành qua thị xã để ăn mừng chiến công. Khi tổng kết chiến lợi phẩm thu được trong trận Thái Nguyên, họ thấy trang bị của họ có thêm 500 khẩu súng, 250 đôi giày, 72 tấm chăn, 8 con ngựa và 4 xe ôtô, 3.000 tấn gạo cùng vô số đường muối và nhiều thực phẩm khác.
Võ Nguyên Giáp không có mặt ở Thái Nguyên lúc trận đánh kết thúc để ăn mừng thắng lợi vì ông phải trở về Tân Trào dự cuộc họp của Đảng Cộng sản Đông Dương. Khi nhận thấy quân Nhật thua trận khắp nơi và sắp sửa đầu hàng Đồng minh, Hồ Chí Minh hiểu rằng cần phải nhanh chóng tiến vào thành phố để kiểm soát ít ra là những thành phố chính trước khi quân Đồng minh tới tiếp nhận đầu hàng và giải giáp quân Nhật. Cuộc hội nghị của Đảng ở Tân Trào có đông đủ đại biểu từ các nơi trong nước và một số ít ở nước ngoài về dự. Ngày 13/8 các đại biểu bắt đầu về đông đủ thì có tin quân Nhật đầu hàng. Hội nghị dự định họp trong hai ngày. Trong phiên họp đầu tiên sáng ngày 16/8, Hồ Chí Minh khéo léo cho các đại biểu truyền tay nhau bức ảnh của tướng Mỹ Chennault có dòng chữ viết tay. Hồ Chí Minh còn cho duyệt một đơn vị bộ đội mặc đồng phục và mang toàn súng Mỹ do OSS vừa mới cung cấp.
Đây là những hành động khôn ngoan vì các đại biểu tới dự Quốc dân đại hội không phải ai cũng có con mắt thiện cảm với Hồ Chí Minh. Một số muốn nắm chính quyền để phục vụ quyền lợi của mình. Một số tự hỏi không biết Đồng minh có thật sự ủng hộ Hồ Chí Minh như ông muốn không? Nhưng những ai còn nghi nghờ hoặc muốn cạnh tranh thế lực với Việt Minh thì giờ đây đều tỏ ra ủng hộ Hồ Chí Minh và ông đã đạt được mục đích. Các đại biểu ở hội nghị Tân Trào đều thông qua lời kêu gọi Tổng khởi nghĩa để giành độc lập và chào đón quân Đồng minh giải giáp quân Nhật. Đó là một thời điểm gay go, quyết liệt vì người Pháp chưa được trang bị và chuẩn bị để chống lại sự thay đổi về quyền lực trong thuộc địa của mình.
Không bỏ lỡ cơ hội, Hồ Chí Minh ra lệnh cho Võ Nguyên Giáp về ngay Hà Nội, giao lại cho cán bộ dưới quyền tổ chức cuộc tiến công Thái Nguyên. Võ Nguyên Giáp dẫn hai trung đội về ngay Hà Nội là nơi đang cần sự có mặt của ông. Lịch sử Việt Nam đã sang trang. Một kỷ nguyên mới bắt đầu.
Trong những ngày lịch sử đó, không ít người nước ngoài có mặt ở Hà Nội, trong đó có Lucien Conein, một sĩ quan lục quân được phái sang OSS, thông thạo tiếng Pháp. Mấy tuần lễ trước khi nổ ra đảo chính Nhật, Conein đã được OSS phái đến Việt Nam để bắt liên lạc với những toán quân Pháp rút chạy sang Trung Quốc. Conein và một phụ trách điện đài đã được một máy bay ném bom Liberator B-24 thả dù xuống miền rừng núi phía bắc. “Bọn chỉ huy ngu ngốc đó không biết thả tôi ở đâu. Chúng cố tìm cách để tôi nhảy xuống nơi nào mà chúng nghĩ có thể dễ dàng bắt liên lạc với những toán quân Pháp đang rút chạy. Nhưng chúng có biết chính xác chỗ nào đâu… Chúng gọi đó là dãy núi “thập vạn đại sơn” và thật khủng khiếp! Còn tệ hơn là địa ngục. Hết leo lên lại leo xuống trên những ngọn núi chết tiệt ấy”.
Cuối cùng Conein cũng liên lạc được với một đơn vị lính Pháp đang lẩn lút trong rừng. Conein làm việc với họ. “Người Pháp quả là quá lạc hậu về trang bị vũ khí. Thế là chúng tôi phải cung cấp cho họ các loại trang bị hợp với thời đại hiện nay và dạy họ phá hủy các trang thiết bị lạc hậu. Cái gì cũng phải huấn luyện lại… Thế rồi kẻ nào điên rồ thả quả bom nguyên tử và chiến tranh kết thúc. Tôi bỏ họ ở lại và chuồn về Hà Nội […] chính ở đây tôi đã gặp Võ Nguyên Giáp.”
Tại Hà Nội Conein đã nhiều lần gặp Võ Nguyên Giáp. Conein kể lại: “Thật sự tôi chẳng nói được gì với Giáp mà chính Giáp dành hết thời gian để nói cho tôi nghe… Tôi gặp Giáp ba, bốn lần gì đó. Ông có cái nhìn sắc bén và anh biết đấy, ông là con người thành thật. Ông tin vào điều mình nói. Giáp có thể kể với anh lịch sử cách mạng bắt đầu từ cuộc Cách mạng Pháp… Ông thật sự là con người có niềm tin cuồng nhiệt. Ông là con người lịch sự, tao nhã. Tôi rất mến ông”. Conein nói thêm: “Giáp là người có thân hình thấp bé […]. Ông có một thái độ kỳ cục: tự coi mình như Napoleon của châu Á. Ông muốn người khác nhìn ông như thế. Và tôi cũng thấy thế!”
“Tôi là đại úy trong quân đội Mỹ. Và tôi nói đó là nơi mà tôi không muốn chút nào”, Conein nói tiếp, “điều mong muốn là rút chân khỏi nơi đó. Chiến tranh kết thúc rồi. Tôi chỉ muốn sớm trở về nhà. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đã yêu cầu tôi đến gặp họ. Họ được người Mỹ rất quan tâm bởi vì những người Mỹ nghĩ rằng có thể làm được gì đó cho họ. Làm sao tôi có thể biết người Mỹ có thể làm được gì cho họ? Họ muốn treo cổ tất cả bọn thực dân, đại loại như vậy”.
Conein đã có mặt ở Hà Nội từ ít ngày nay. Ngày 30/8, thiếu tá Allison Thomas hiểu rằng Patti và đơn vị của ông đã có mặt ở đây từ ngày 22/8. Thomas muốn lập tức rời khỏi Thái Nguyên để về Hà Nội nhưng Patti nói với ông rằng ông phải ở lại với đội Con Nai cho đến khi có lệnh mới. Không có việc gì đặc biệt để làm Thomas và các bạn của ông giết thời gian bằng cách đi tắm nắng hoặc đi thăm các vùng xung quanh thành phố Thái Nguyên. Ngồi không chẳng có việc gì làm Thomas đâm cáu kỉnh ngay cả khi Võ Nguyên Giáp viết cho ông một mẩu giấy bằng tiếng Pháp cho biết: “Chúng tôi đã về đến Hà Nội. Nếu người Pháp ở đây, chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng. Hà Nội không thể nghỉ ngơi chừng nào chưa phải là thủ đô của một nước tự do. Chúng tôi rất vững vàng chờ đợi mọi thử thách. Nước Việt Nam sẽ được độc lập”.
Rồi ngày 6/9, Thomas nhận được một tặng phẩm của Võ Nguyên Giáp: hai chai sâm banh và một chai wisky mang nhãn hiệu Haig & Haig từ Hà Nội chuyển lên. Cuối cùng, Thomas nhận được mẩu tin ngắn: Patti đã bình tĩnh trở lại và toàn đội Con Nai có thể di chuyển về Hà Nội.
Ngày 22/8, Lucien Conein về Hà Nội gặp thiếu tá Patti. Việt Minh bố trí cho Patti và những người của OSS ở trong một khách sạn khá lớn tại trung tâm Hà Nội. Lucien Conein cũng được Việt Minh sắp xếp cho ở đó mấy hôm. Đó là khách sạn Metropole. Conein không ưa gì thủ trưởng mới của mình: “Tôi không thích Patti. Đó là một con công chướng mắt. Bạn sẽ không bao giờ biết được sự thật về anh ta.”
10 giờ đêm ngày 9/9, Thomas và toán của ông về tới Hà Nội, sau một hành trình dài ngày hết đi bộ, đi thuyền, xe kéo, xe đạp rồi ôtô và tàu thủy. Nhóm của Patti giúp Thomas và bạn ông xếp chỗ ở trong khách sạn Metropole. Sáng hôm sau Thomas đến Bắc Bộ Phủ, ngay phía đối diện gần đó là nơi làm việc của Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và Chính phủ. Cùng ngày Thomas gặp Patti chất vấn tại sao người ta lại ra lệnh cho ông ở lại Thái Nguyên lâu đến thế. Patti trả lời muốn giữ triệt để trung lập trong khi đó Thomas lại đã “đồng dạng với Việt Minh”. Thomas giận dữ đáp: “Tất cả những gì chúng tôi mong muốn là về nhà với gia đình”.
Những ngày tiếp theo, từ ngày 10 đến ngày 16/9, thiếu tá Thomas ở Hà Nội cư xử như một nhà du lịch. Ông đi chơi trong thành phố, mua đồ lưu niệm và từ biệt những người bạn mới. Ngày 11 ông chụp một kiểu ảnh chung với Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Ông vui mừng thấy Hồ Chí Minh từ nay là Chủ tịch Chính phủ lâm thời và người bạn thân nhất là ông Văn nay thành Bộ trưởng Nội vụ. Ông trông thấy cờ Việt Minh phấp phới bay trên hều hết các nóc nhà trong thành phố, rất nhiều khẩu hiệu bằng tiếng Việt, Anh, Pháp và tiếng Hindu “Hoan nghênh các bạn Đồng minh Mỹ”, “Hoan nghênh ủy ban hòa bình”, “Độc lập hay là chết?”, “Hai triệu người chết dưới sự cai trị của Pháp. Nước Việt Nam của người Việt Nam”. Ông viết trong nhật ký: “Chính phủ mới hình như được đa số nhân dân trong nước nhiệt tình ủng hộ”.
Đêm cuối cùng ở Hà Nội trước khi bay về Côn Minh vào sáng hôm sau, Thomas được Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp mời cơm thân mật. Ông luôn luôn tin rằng 100% Việt Minh là những người nông dân không có học vấn không bao giờ nghe thấy từ ngữ cộng sản hoặc chủ nghĩa cộng sản là gì. Cách đó ít lâu ông đã gọi điện về đại bản doanh OSS ở Côn Minh nói rằng Hồ Chí Minh không phải là cộng sản. Điều đó cũng chẳng thay đổi gì. “Đại bản doanh OSS đã biết Hồ Chí Minh là ai nhưng người ta không cho biết những thông tin gì bổ ích về ông Hồ trước khi tôi nhảy dù xuống vùng Kim Long của Việt Minh”. Thomas muốn câu chuyện được sáng tỏ trước khi ông ra đi. “Trong bữa cơm - Thomas kể lại - tôi hỏi thẳng Hồ Chí Minh có phải là cộng sản không? Hồ Chí Minh trả lời bằng tiếng Anh thông thạo: Vâng, tôi là cộng sản nhưng điều đó không ngăn cản tình bạn của chúng ta phải không?” Ngày hôm sau, Thomas rời Hà Nội để bắt đầu cuộc hành trình dài ngày trở về với gia đình ở Mỹ.
Ít lâu sau Võ Nguyên Giáp đã viết cho ông một lá thư thân thiết đề ngày 20/11/1946, trong thư đầy ắp những chuyện tiếu lâm, những chuyện về những người bạn chung của hai người và chuyện thời sự. Võ Nguyên Giáp nói về Chính phủ mới “mà tôi thực tế là Bộ trưởng Quốc phòng”, ông kết thúc bức thư gửi cho Thomas: “Bạn rất thân mến, anh hãy nhận ở đây tình bạn rất chân thành của tôi. Võ Nguyên Giáp, tức Văn.” Từ khi Nhật Bản đầu hàng, những người của Hồ Chí Minh đã bắt đầu chuẩn bị cho nhân dân nổi dậy để Việt Minh cướp chính quyền. Một trong những mục tiêu là giành được sự ủng hộ của giới sinh viên Hà Nội. Điều này không dễ vì sự nhiệt tình đối với lý tưởng cộng sản không giống như sự căm thù đối với người Pháp. Thanh niên lúc đó theo lời kể của Vĩnh Lộc – cựu sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng hòa – là tìm mọi cơ hội để có thể hít thở một bầu không khí mới. Điều đó đủ để cảnh báo cho người Pháp.
Người Pháp rất mong muốn khôi phục quyền lực trên bán đảo Đông Dương. Từ ngày 24/3/1945 tướng De Gaulle tuyên bố rằng ngay sau chiến tranh nước Pháp sẽ thành lập Liên bang Đông Dương gồm các xứ Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Campuchia và Lào. Chiến tranh kết thúc, chính phủ Paris bắt tay ngay vào việc khôi phục nền thống trị thuộc địa. Trước khi người Nhật chính thức ký đầu hàng trên boong thiết giáp hạm Missouri, phái đoàn Pháp ở Calcutta đã gửi phái viên nhảy xuống vùng hậu tuyến của Nhật ở Việt Nam, bước đầu tiên của việc khôi phục nền thống trị Pháp. Sĩ quan, viên chức cai trị thuộc địa và nhân viên tình báo có căn cứ ở Trung Quốc, Tích Lan và Madagascar nhận được lệnh xâm nhập vào Đông Dương bằng mọi cách. Một số đi bằng đường biển, một số khác nhảy dù. Không biết đến những thay đổi lớn lao đã xảy ra trên mảnh đất vốn là thuộc địa cũ này, họ đi tìm những viên quan lại cũ, các lý trưởng để xuất trình giấy tờ. Đa số trong bọn họ kể cả Pierre Messmer, Ủy viên cộng hòa Bắc Kỳ, Jean Cédille, Ủy viên cộng hòa Nam Kỳ đều bị bắt và bị giam giữ trong nhà tù hoặc của Nhật hoặc của Việt Minh.
Suốt hành trình đi bộ về Hà Nội, Võ Nguyên Giáp cùng các đơn vị bộ đội đi trên những con đường dọc hai bên là những cột dây thép, những thửa ruộng ngút ngàn đến tận chân trời. Họ nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt của dân chúng vốn được cán bộ cơ sở tổ chức thành những đoàn biểu tình đông đảo. Cờ đỏ sao vàng phấp phới bay khắp nơi trên các mái nhà trong xóm. Khi về đến Gia Lâm gần thủ đô, đoàn quân của Võ Nguyên Giáp bị các đồn tiền tiêu của Nhật chặn lại. Sau những cuộc tranh luận gay gắt, người Nhật phải chấp nhận cho đoàn quân đi qua. Họ đi qua con đường dọc đê sông Hồng, tiến vào thành phố. Đoàn quân nhạc cử các bài hành khúc nghênh đón trong khi quân của Võ Nguyên Giáp qua cầu Long Biên. Các chiến sĩ chia ra hai hàng dọc theo mép đường. Đạn đã lên nòng sẵn sàng nổ khi gặp bất trắc. Họ đã vào thủ đô như vậy.
Tháng 8 năm nay nước sông lên sớm và lưu lượng nhiều hơn mọi năm. Nhiều nơi đê bị vỡ hoặc sạt lở. Sáu tỉnh đồng bằng – vựa lúa của miền Bắc – bị ngập lụt. Bệnh truyền nhiễm hoành hành. Không may là nước lụt vừa rút thì nạn hạn hán lại ập tới kéo dài. Phần lớn lúa mùa mất trắng, nhiều cánh đồng bỏ hoang. Nạn đói xảy ra lác đác từ năm 1944 đã lan rộng khắp nông thôn miền Bắc, và vào lúc giáp hạt đầu năm 1945 làm hơn hai triệu người chết. Võ Nguyên Giáp đau đớn kể lại: “Dân sống ngày nào biết ngày ấy. Ở thành phố, xe đổ rác không đủ để dọn xác chết đưa ra ngoại ô chôn cất. Từng đoàn người rách rưới, thất thểu bỏ làng đi ăn xin ở các chợ cửa ô thành phố. Nhiều người ngã vật xuống lề đường như lá rụng mùa thu. Nhiều khi cánh tay người cảnh sát chỉ khẽ đụng vào cũng đủ làm cho họ khuỵu xuống không thể gượng dậy được nữa”.
Lucien Conein nhìn đoàn quân của Võ Nguyên Giáp vào thành phố. Conein không có ấn tượng về họ: “Mình mà có một tiểu đoàn thì ăn tươi nuốt sống ngay đám người mang súng kia! Mà cần gì một tiểu đoàn nhỉ, chỉ một đại đội cũng đủ nuốt gọn!”
Về phần mình, Võ Nguyên Giáp cố gắng tạo cho quân đội một thế lực gần như thần bí. Ông kể: “Suy nghĩ của dân chúng hoàn toàn thay đổi khi họ được biết Việt Minh đã chiếm Hà Nội. Mọi tệ nạn biến mất, ngay cả trộm cắp vặt cũng gần như không còn. Không thấy một người ăn mày nào trên đường phố hay ở chợ. Người ta chẳng thiết gì kinh doanh, buôn bán mà chỉ gọi nhau hội họp, mít tinh biểu tình. Thanh niên con trẻ tập đi thành đội ngũ, học các bài ca cách mạng. Cờ đỏ sao vàng khắp nơi…”
Chủ nhật ngày 19/8, những tia sáng ban mai vừa xuất hiện, cán bộ Việt Minh, thanh niên tự vệ đến từng nhà trong các phố, các thôn xóm ngoại thành để kêu gọi biểu tình ở trước Nhà hát Lớn thành phố. Hàng vạn người nghe theo và đến chỗ mít tinh. Rất nhiều người mang cờ, biểu ngữ mới làm vội vã chiều hôm trước, tạo nên không khí phấn khởi của ngày hội. Cán bộ Việt Minh xếp hàng bốn đi đầu dạy họ đi đều, hô khẩu hiệu và hát bài “Tiến quân ca”.
Khi họ đến chỗ họp mít tinh đã thấy từng đoàn người khắp nơi tấp nập kéo đến. Mặt mày rạng rỡ, vừa đi vừa hát, thỉnh thoảng lại vung tay hô khẩu hiệu. Một lá cờ đỏ sao vàng cỡ lớn đi trước, nhiều cờ bé cầm trên tay, tràn ngập các ngả đường ùn ùn dẫn đến quảng trường Nhà hát. Một không khí nô nức say sưa, hồ hởi, phấn khích… bao trùm.
Đoàn biểu tình có lực lượng tự vệ xung phong đi đầu về phía Phủ Khâm sai Bắc Kỳ. Họ dừng lại trước hàng rào sắt. Những người cách mạng hưng phấn quá độ đòi những lính canh gác người Việt đầu hàng. Hoảng sợ trước sự hùng hổ đe dọa của đám đông, những người lính canh đành ngoan ngoãn vâng lời. Họ chưa kịp mở cổng thì những người biểu tình đã leo qua hàng rào nhảy vào chiếm Dinh. Từng đoàn người cả đàn ông và đàn bà đủ mọi lứa tuổi đồng loạt xông vào trại lính Nhật(1) chiếm kho vũ khí, lấy súng phân phát cho những bàn tay cuồng nhiệt giương cao. Rồi họ lại tiến đến các dinh thự công sở khác trong thành phố và cũng làm như vậy. Đến chiều tối Việt Minh đã làm chủ thành phố.
Từ ngày 19 đến ngày 30/8, Việt Minh đã nắm chính quyền từ sông Hồng đến đồng bằng Cửu Long ở phía Nam. Patti ở Hà Nội rất mãn nguyện trước sự phát triển của tình hình. Trong hồi ký của mình, Patti viết: “Tôi khẳng định trong bản báo cáo là chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương là một trong những thí dụ tệ hại nhất có thể tưởng tượng được về tình trạng lệ thuộc, tâm lý khinh miệt quyền con người và đầu óc tham lam vơ vét của kẻ chiếm đóng và trên ba phần tư thế kỷ người dân Việt đã bị bóc lột thậm tệ, bị đối xử tàn ác và nói chung bị coi như sở hữu riêng của người Pháp […]. Những điều kiện xã hội, kinh tế do chế độ thực dân Pháp tạo ra là nguồn gốc, là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tâm trạng bất mãn và nổi dậy của dân chúng”.
Tuy nhiên, người Pháp vẫn tiến bước đều đều để lập lại nền thống trị thuộc địa. Ngày 16/8/1945 trong lúc Võ Nguyên Giáp đang tiến đánh Thái Nguyên, Charles de Gaulle cử tướng Jacques Philippe de Hautecloque, quen gọi là Leclerc, làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Viễn Đông và ra lệnh triển khai nhiều đơn vị bộ binh ở Việt Nam. Hồ Chí Minh ra lệnh cho Võ Nguyên Giáp sang sân bay Gia Lâm để đón Leclerc. Võ Nguyên Giáp tỏ rõ thái độ kiên quyết không chịu đi gặp và bắt tay viên tướng Pháp. Hồ Chí Minh kiên nhẫn nghe Võ Nguyên Giáp trình bày rồi nói như ra lệnh: “Chú chỉ còn hai tiếng đồng hồ nữa trước khi máy bay tới. Chú định tự cô lập mình để rồi tha hồ mà khóc à? Thôi, chú hãy ra sân bay đi.” Thế là Võ Nguyên Giáp phải sang sân bay Gia Lâm gặp Leclerc.(2)
De Gaulle cũng bổ nhiệm đô đốc Georges Thierry d’Argenlieu làm Cao ủy ở Đông Dương. Jean Sainteny – trưởng phái đoàn Pháp ở Côn Minh – cũng được cử làm Ủy viên cộng hòa ở Bắc và Trung Kỳ, đã nhảy dù xuống Hà Nội ngày 27/8(3). Ngay lập tức ông ta tỏ vẻ không tín nhiệm quan hệ giữa OSS và Việt Minh. Thiếu tá Patti đi với Võ Nguyên Giáp và giới thiệu với Sainteny nhưng không xóa được nghi ngờ giữa hai bên: mục tiêu khác nhau của mỗi bên khiến họ đương nhiên là kẻ thù của nhau.
Ngày 28/8 báo chí Hà Nội đưa tin về thành phần Chính phủ lâm thời: Võ Nguyên Giáp là Bộ trưởng Nội vụ. Ban Thường vụ Trung ương Đảng cũng có quyết định ngày Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân cũng là ngày chính thức tuyên bố độc lập của Việt Nam trước thế giới. Cuối tháng, Hồ Chí Minh đọc cho Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp nghe bản khởi thảo Tuyên ngôn độc lập. Cán bộ Việt Minh không ngừng cổ vũ quần chúng. Đường phố Hà Nội rung lên vì náo động và căng thẳng: các loa phóng thanh truyền đi các tin tức và bình luận của Chính phủ lâm thời. Trên đường phố khẩu hiệu, áp phích dán khắp nơi kích động lòng căm thù chủ nghĩa đế quốc Pháp.
Võ Nguyên Giáp chính thức gánh vác công việc ở Bộ Nội vụ từ ngày 29/8 và mặc dù người bạn cũ của ông là Chu Văn Tấn giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng nhưng chính Võ Nguyên Giáp mới nắm thực quyền chỉ huy lực lượng vũ trang. Là người đứng đầu về quân sự, ông biết rõ tính năng động của chính quyền cách mạng là ở khâu nào. Là Bộ trưởng Nội vụ, ông có những cuộc tiếp xúc hàng ngày với đủ loại người phương Tây từ nhà ngoại giao đến những người có trách nhiệm khác sẵn sàng áp đặt bằng vũ lực điều mà người Việt Nam từ chối thương lượng. Đây là một trách nhiệm nặng nề, ông vừa phải duy trì hòa bình vừa phải chuẩn bị cho cuộc chiến tranh có thể nổ ra bất cứ lúc nào, qua đó Võ Nguyên Giáp trưởng thành nhanh chóng về mặt chính trị.
Xây dựng quân đội là một trọng trách đặc biệt đối với Võ Nguyên Giáp và ông luôn có ý thức về mặt quan hệ cộng sinh giữa chính trị và quân sự. Ông cũng biết chỉ dựa vào giải pháp quân sự không thôi thì kết quả đạt được rất mong manh, chỉ có một nền chính trị vững chắc mới có thể đảm bảo cho các thành quả cách mạng. Ông có vị trí khá thuận lợi. Là thành viên trong bộ máy lãnh đạo về chính trị, ông có thể tin chắc là những quan điểm quân sự của ông sẽ nhanh chóng được thông qua. Là người đứng đầu quân sự, ông biết là các đồng nghiệp chính trị của ông sẽ nghe theo quan điểm chính trị của ông.
Ngày 30/8, Hoàng đế Bảo Đại thoái vị, trao quyền lực cho Chính phủ cách mạng lâm thời do Hồ Chí Minh thành lập và trở thành “người công dân Nguyễn Vĩnh Thụy, dân của một nước tự do”. Ông nhận lời mời của Hồ Chí Minh làm cố vấn tối cao của Chính phủ lâm thời. Điều này tăng thêm khả năng thuyết phục được những người bình thường, giới quan lại cũ và những phần tử do dự, lưng chừng chấp nhận và ủng hộ Chính phủ. Cuối cùng,Việt Minh đã nắm trọn quyền điều hành đất nước.
1. Tác giả nhầm, ở đây là trại Bảo an binh (ND).
2. Theo tài liệu chính thức được công bố, Võ Nguyên Giáp gặp Leclerc ở Hải Phòng sáng 7/3/1946 sau khi Việt Nam ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 với Pháp, cho phép quân Pháp đổ bộ ra miền Bắc thay thế quân Tưởng (ND).
3. Tác giả nhầm: Sainteny đi nhờ máy bay của phái đoàn Mỹ đến Hà Nội để chăm sóc tù binh Đồng minh bị Nhật giam giữ (ND).
Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt
- Tác giả : Ngô Văn Phú
- Danh mục : Lịch sử