Chiến thắng bằng mọi giá

Chương 9 “Chúng ta phải thực tế”

<<Chương 8 “Chúng tôi sẽ phải dùng đến vũ khí” Chương 10 “Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng” >>

Chương 9 “Chúng ta phải thực tế”


Vài ngày sau khi từ miền Nam trở về, Võ Nguyên Giáp đến biệt thự của cố vấn Vĩnh Thụy. Được đưa vào phòng khách, Võ Nguyên Giáp cất tiếng chào: “Tôi vừa mới đi công tác về”. Ông giữ đúng lời hứa trước khi ra đi, khi về sẽ báo ngay cho ông cố vấn.

Đã được báo trước về việc đến thăm, Bảo Đại mời ngay Võ Nguyên Giáp vào bàn ăn đã được chuẩn bị sẵn. Trong bữa cơm Bảo Đại thấy Võ Nguyên Giáp hôm nay có vẻ bối rối, chỉ chăm chú vào thức ăn mà không ngẩng lên, dường như muốn tránh ánh mắt của mình. Không còn là Võ Nguyên Giáp với dáng điệu quen thuộc, tự tin mọi ngày. Hôm đó nét mặt Võ Nguyên Giáp như tối sầm. Kết thúc bữa ăn, Bảo Đại mới rụt rè lên tiếng:

- Tình hình trong đó thế nào rồi?

- Chúng ta phải thực tế mới được, thưa ngài cố vấn.

- Thế là thế nào, thưa ông?

- Chúng ta phải thích nghi với việc trở lại của người Pháp.

Võ Nguyên Giáp buồn rầu giải thích, trong tâm trí nhớ lại sức mạnh quân sự của Pháp mà các đồng chí của ông đang phải đương đầu ở miền Nam.

- Chúng ta phải quay về với chế độ bảo hộ à? Ông nói đùa đấy chứ, ông Giáp, tôi hy vọng như thế. Bảo Đại không tin ở tai mình nữa!

- Không tôi nói thật đấy! Nếu cần thiết phải đến nước ấy, thưa ngài cố vấn.

Bảo Đại không giữ được bình tĩnh:

- Tôi không hiểu ông nói gì. Tôi đã nhận độc lập từ tay Nhật. Tôi đã thoái vị nhường quyền cho Việt Minh. Tôi đã nhường chỗ cho các ông. Nay các ông gài số lùi ư?

- Đó là con đường duy nhất có thể đi được. Ở miền Nam người Pháp đã phá hủy hết các cơ cấu mà chúng ta vất vả lắm mới xây dựng được. Họ kiểm soát tuyệt đối tất cả rồi. Sớm muộn gì thì họ cũng ra đây! Làm sao chúng ta có thể chống lại họ? Chúng ta có quân nhưng không có súng đạn.

Bình tĩnh trở lại sau khi đưa ra nhận xét đó, Võ Nguyên Giáp đi vào chi tiết tình hình. Ông vừa nói vừa đùa kể lại một giai thoại để ông cố vấn vui vẻ trở lại. Lúc đi qua Vinh ông ghé vào thăm quê của Quang Thái – người vợ quá cố. Ông đến thăm Ủy ban nhân dân Cách mạng trong làng. Võ Nguyên Giáp cho họ biết ông không những thay mặt cho cụ Hồ mà còn thay mặt cho cả cố vấn Vĩnh Thụy nữa. Thế là họ hỏi ngay tình hình sức khỏe của Bảo Đại ra sao? Võ Nguyên Giáp kể cho họ nghe những điều ông biết. Thế là sáng hôm sau họ mang một chiếc lọng to ra để nơi gót chân ông vì không cho ông đứng xa cái lọng ấy nửa bước chân. “Như vậy có ý nghĩa gì?”

- Không có gì phải ngạc nhiên - Bảo Đại giải thích: - Lọng là biểu tượng uy quyền của nhà vua. Ông đã chẳng nói cho họ biết là thay mặt cho cả tôi nữa thì họ phải tôn vinh ông với đầy đủ nghi thức như đối với bản thân hoàng đế vậy!

Võ Nguyên Giáp đã e ngại sức mạnh của quân Pháp, đến giờ nghe Vĩnh Thụy giải thích, ông lại thấy ảnh hưởng của Việt Minh trong chính phủ vẫn chưa thật sự vững chắc, điều đó khiến ông lo lắng.

Trong những tuần tiếp theo, Võ Nguyên Giáp nỗ lực vượt bậc để tổ chức nhân dân miền Bắc. Mùa xuân năm 1946, mỗi làng, mỗi thôn xóm, mỗi đường phố, mỗi tổ chức đều có lực lượng tự vệ cố gắng tự túc cả về lương thực lẫn vũ khí. Đơn vị nào mạnh nhất đều có hai hay ba đại đội, chỗ nào yếu nhất thì cũng phải có một trung đội. Ở Hà Nội công việc tiến triển tốt hơn cả. Đội viên tự vệ Hà Nội tự kiếm trang phục, vũ khí, dao găm, lựu đạn, mã tấu, súng săn và kể cả liên thanh Nhật. Được chính phủ giúp đỡ bằng cách cử người xuống huấn luyện quân sự, dạy chính trị. Dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, lực lương tự vệ có hẳn một trung tâm đào tạo cán bộ. Võ Nguyên Giáp thỉnh thoảng đến giảng chính trị ở đó.

Võ Nguyên Giáp đã có nhiều trải nghiệm và trưởng thành. Cuối năm 1945, kinh nghiệm quân sự của ông mới ở mức chỉ huy một tiểu đoàn trong quân đội phương Tây, đến năm 1946, ông giữ trọng trách tương tự như tướng chỉ huy quân đoàn trên chiến trường. Chỉ qua vài tháng từ khi giành được chính quyền tháng 8/1945, quân số dưới quyền chỉ huy của ông đã tăng gấp mười lần. Võ Nguyên Giáp cũng không coi nhẹ tranh thủ sự ủng hộ của những người chưa có điều kiện nhập ngũ. Nơi nào ông cũng khuyến khích người dân lập “bàn thờ Tổ quốc” để luôn nhắc nhở họ ý thức thiêng liêng về nghĩa vụ đối với Tổ quốc. Từ việc thành lập bàn thờ tổ tiên trong mỗi gia đình, ông đã đưa ra ý tưởng thành lập bàn thờ Tổ quốc. Các thành viên trong gia đình bây giờ có thể trung thành với dân tộc trước bàn thờ Tổ quốc. Rất nhiều nơi không phải chỉ riêng ở Hà Nội đã lập lên những bàn thờ như thế.

Mối quan tâm hàng đầu của Võ Nguyên Giáp là việc trang bị vũ khí cho quân đội. Phần tài chính ít ỏi mà Chính phủ dành cho việc này là các khoản tiền được cấp để mua vũ khí của quân Nhật hay quân Tàu Tưởng. Những nỗ lực đó không làm Võ Nguyên Giáp yên tâm về nhu cầu trang thiết bị cho quân đội của ông đang mỗi ngày một phát triển. Mặt khác, ông không thể trang bị cho quân đội theo một mẫu thống nhất như tất cả các nước mỗi khi xây dựng quân đội cho mình đều phải làm như vậy. “Kết quả là số lượng ít ỏi về vũ khí, đạn dược mà chúng tôi có được là một thứ trang bị tạp nham hổ lốn, xuất xứ từ đủ loại nguồn gốc. Trong đó có cả súng nòng ngắn trường Nga nòng dài ngoẵng từ đời Sa hoàng, súng Mutke chế tác từ những xưởng luyện kim nguyên thủy thế kỷ XVI - XVII, tất cả đến bốn chục loại, bắn đủ các loại đạn khác nhau”.

Võ Nguyên Giáp đã kể ra một số loại vũ khí trong vô số loại mà quân đội của ông đã sử dụng: mút-cơ-tông, súng trường ngắn nòng, súng bắn lựu đạn, súng săn cỡ 12, 16, 20, súng nòng ngắn của kỵ binh Nhật, súng trường Anh 7,7mm, súng remington của Mỹ sản xuất năm 1903 và 1917, súng mauser của Đức 9mm và 7,5mm. Không phải là Võ Nguyên Giáp muốn thế nhưng đó là buổi đầu tất yếu phải trải qua. Ít nhất quân sĩ của ông cũng phải có cái gì để mà tự vệ chứ!

Đồng thời Võ Nguyên Giáp cũng nói thẳng với quân đội của ông rằng có gì dùng nấy, bất cứ thứ vũ khí nào có trong tay đều có thể dùng để đánh địch. Trong lần trả lời phỏng vấn Jean Lacouture đăng trên báo Paris-Sài Gòn ngày 27/2/1946, Võ Nguyên Giáp nhắc lại những ý nghĩ của ông về tương lai không mấy sáng sủa: “Nếu nước Pháp không nhìn xa trông rộng khiến xung đột nổ ra thì nên biết rằng chúng tôi quyết chiến đấu bất chấp mọi tổn thất về sinh mạng và vật chất”.

Sức ép đối với Chính phủ Hồ Chí Minh tăng lên từ khi một phái đoàn ngoại giao ký Hiệp ước Pháp - Hoa ngày 28/2/1946 quyết định Trung Quốc chấp nhận để Pháp gửi một số quân hạn chế đến miền Bắc Đông Dương thay thế quân Trung Quốc sẽ rút về nước trong khoảng từ ngày 1 đến ngày 15/3, chậm nhất là 31/3. Đổi lại Pháp từ bỏ những khu nhượng địa cũ và những quyền lợi khác ở Trung Quốc. Điều đó tạo điều kiện cho Pháp được rảnh tay lập lại nền thống trị thuộc địa ở Đông Dương. Chính phủ Hồ Chí Minh có khả năng thực sự điều hành công việc của đất nước từ khi về Hà Nội tháng 8/1945 nay đang gặp phải những tảng đá ngầm, trong lúc một số khủng hoảng xuất hiện ngày càng rõ ràng đối với Võ Nguyên Giáp và các đồng chí của ông.

Từ tháng 8/1945, trong các cuộc đàm phán ngắt quãng với người Pháp, Hồ Chí Minh cố gắng tìm cách xây dựng phương án thỏa hiệp để giữ cho chính phủ tồn tại, trong đó có hai điểm được nhấn mạnh:

1/ Nước Việt Nam phải được thống nhất, Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ phải được coi như một thực thể chính trị duy nhất

2/ Nước Việt Nam phải được độc lập.

Người Pháp từ chối công nhận độc lập và họ nhấn mạnh việc Nam Kỳ của Việt Nam phải được duy trì những quan hệ đặc biệt với mẫu quốc.

Từ khi hiệp định Pháp - Hoa được ký kết, Hồ Chí Minh hiểu rằng mình đã chậm chân. Võ Nguyên Giáp thì rất bực tức và hụt hẫng. Ông nói: “Trước đây chúng tôi đã cố gắng lợi dụng mâu thuẫn giữa người Pháp và người Trung Quốc, thực hiện hòa hoãn với Tàu Tưởng để tập trung sức đối phó với Pháp (ở miền Nam). Nhưng nay hai kẻ thù âm mưu chống phá chúng tôi”. Võ Nguyên Giáp biết trước khi rút quân về nước, bọn Tàu Tưởng sẽ cố đưa Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội vào chính quyền.

Nếu ai muốn hỏi xem Hồ Chí Minh có bằng lòng để người Pháp đưa quân trở lại Bắc Kỳ không, thì ông sẽ nói ngay: “Các anh điên cả rồi sao, các anh có hiểu là không bằng lòng cho Pháp vào có nghĩa là để người Trung Hoa ở lại không? Các anh có hiểu lịch sử không? Lần trước người Trung Hoa đến đây, họ đã ở lại một nghìn năm. Lần này họ đến nữa, họ sẽ không bao giờ đi khỏi đây”(1).

Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội càng ngày càng hoạt động ráo riết. Võ Nguyên Giáp tâm sự: “Chúng làm như thể chúng là những nhà cách mạng nhiệt tình nhất. Âm mưu của chúng là đẩy chúng tôi vào thế đối lập với Hiệp ước Pháp - Hoa, điều đó càng tạo điều kiện cho Pháp và Tưởng có lý do để bào chữa cho sự câu kết với nhau nhằm chống phá cách mạng”. Võ Nguyên Giáp tiếp tục giải thích lập trường của Việt Minh đối với Pháp: “Vừa giành được độc lập với bất cứ giá nào vừa liên minh với Pháp”.

Võ Nguyên Giáp tố cáo hai đảng Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội tăng cường các vụ bắt cóc những người lãnh đạo các đảng đối lập. Chúng dành nhiều thời gian vào việc chia rẽ đoàn kết dân tộc hơn là tìm cách ngăn chặn việc Pháp trở lại. Khi Hồ Chí Minh có những cuộc tiếp xúc với Pháp, chúng cáo buộc ông là phản bội dân tộc và bảo trợ cho những cuộc biểu tình kịch liệt đòi Hồ Chí Minh từ chức để Bảo Đại lên đứng đầu chính phủ.

Ngày 16/2/1946, Hồ Chí Minh gặp Sainteny, Ủy viên cộng hòa Pháp tại Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, để bắt đầu các cuộc thảo luận ngoại giao. Hồ Chí Minh gợi ý: Việt Nam độc lập trong Liên hiệp Pháp. Sainteny phản đối và đề nghị: Bắc Kỳ và Trung Kỳ tự trị trong Liên hiệp Pháp và tổ chức trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ để quyết định xem Nam Kỳ có muốn thiết lập quan hệ với hai miền kia không. Sainteny báo cáo về Paris nội dung thực chất của các cuộc hội đàm nói trên.

Để ngăn ngừa những lời chỉ trích trong nước, Hồ Chí Minh định lập chính phủ mới ngày 24/2. Trong chính phủ mới, Việt Minh nắm năm bộ, Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội kiểm soát sáu bộ nhưng Hồ Chí Minh vẫn giữ ghế Chủ tịch.

Quốc hội Việt Nam họp phiên đầu tiên ngày 2/3/1946 tại nhà hát Thành phố phủ kín cờ. Võ Nguyên Giáp hài lòng về thành phần tham dự: “Chưa bao giờ có sự tập hợp đông đủ các đại biểu từ khắp nơi trong nước kể cả đại biểu các đảng phái phản động và nhiều khách mời ngoại quốc như vậy”. Quốc hội nhanh chóng phê chuẩn chính phủ mới của Hồ Chí Minh. Cùng ngày hôm đó, Võ Nguyên Giáp được bổ nhiệm vào Ủy ban toàn quốc kháng chiến. Ông nói: “Con tàu Tổ quốc tiến lên vượt qua bao thác ghềnh cực kỳ nguy hiểm”. Trước tình hình Việt Nam sắp đến bước ngoặt quan trọng, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản thuyết phục Quốc hội bế mạc cùng ngày lúc 1 giờ trưa, sau buổi họp chỉ kéo dài bốn tiếng đồng hồ.

Khoảng đầu tháng 3/1946, các cuộc thương lượng giữa Việt Minh và Pháp vẫn không nhúc nhích. Để đề phòng bất trắc, Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho các lực lượng vũ trang đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Tất cả các cơ quan chính của chính phủ đều chuẩn bị chu đáo đề phòng những lộn xộn xảy ra. Phần lớn người già và trẻ em đều tản cư khỏi thủ đô. Các lực lượng tự vệ thành phố đặt mìn ở gốc cây, chân cột điện dọc các đường phố. Khi có hiệu lệnh, người ta sẽ dễ dàng đánh đổ gốc cây, cột điện để làm chướng ngại vật ngang đường hoặc làm chiến lũy trên đường phố. Các đường tàu xe điện cũng được đặt mìn để sẵn sàng đợi lệnh phát nổ. Cũng trong tháng đó, để đề phòng trước cuộc xung đột mà người ta cho là khó có thể tránh khỏi, Ban Chấp hành Trung ương Đảng bổ nhiệm Võ Nguyên Giáp làm Phó chủ tịch Hội đồng Quốc phòng tối cao, Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang.

Các cuộc đàm phán giữa Hồ Chí Minh và Sainteny vẫn tiếp tục. Người Pháp thừa nhận một cách loanh quanh rằng Việt Nam là một quốc gia tự trị trong Liên hiệp Pháp có chính phủ, có quốc hội, quân đội và tài chính riêng. Về thống nhất ba kỳ (Bắc, Trung, Nam), Chính phủ Pháp hứa sẽ chấp nhận kết quả trưng cầu ý dân nhưng không nhượng bộ về việc công nhận Việt Nam độc lập. Ngay cả với ý tưởng nói đến từ “độc lập”, các nhà ngoại giao Pháp đều thấy rùng mình rồi.

Hồ Chí Minh nhất định không nhượng bộ, ý kiến hai bên còn rất xa nhau, như Võ Nguyên Giáp giải thích: “Chúng tôi không thể chấp nhận “tự trị” vì chúng tôi đã phải bỏ một phần các quyền tự do mà chúng tôi đã giành được bằng nhiều xương máu và chúng tôi đã phải chấp nhận ít nhất một phần trở lại chế độ nô lệ, thuộc địa”. Võ Nguyên Giáp sôi nổi hẳn lên: “Nam Kỳ là máu Việt Nam, là thịt Việt Nam, một phần lãnh thổ Việt Nam và chúng tôi không cho phép bất kỳ kẻ địch nào có thể cắt khỏi (cơ thể) Việt Nam”. Vậy là thương lượng bế tắc.

Để làm chỗ dựa cho lập trường của mình, Pháp phái hạm đội ra Vịnh Bắc Bộ. Trước tình hình đó, ngày 6/3 Hồ Chí Minh gặp Sainteny. Để thúc đẩy thương lượng ra khỏi bế tắc do Pháp không nhận từ “độc lập”, Hồ Chí Minh cho biết có thể nhận Việt Nam là một “quốc gia tự do” có chính phủ, quốc hội, quân đội, tài chính riêng và chấp nhận giải quyết vấn đề Nam Kỳ sẽ hoãn lại cho đến khi tổ chức trưng cầu ý dân. Ông cũng nhấn mạnh việc nhiều nhất là 15.000 lính Pháp sẽ được phép vào miền Bắc thay thế lính Trung Hoa sắp rút về nước, hoàn thành việc giải trừ quân bị và hồi hương nốt quân Nhật còn lại. Thêm nữa, Hồ Chí Minh muốn thấy số quân Pháp sau khi hoàn thành nhiệm vụ được giao đó sẽ rút dần về nước. Họ chỉ có thể ở lại 10 tháng, không được thêm một ngày nào nữa. Còn những lực lượng khác của Pháp phải rút hết trong thời hạn 5 năm.

Phái đoàn Sainteny chấp nhận đề nghị đó của Hồ Chí Minh, một đề nghị không khác lắm so với các giải pháp của Pháp đã đưa ra trước đó, trừ từ “tự do” thay cho từ “độc lập”. Trong lúc đó, Bảo Đại đã phàn nàn với Võ Nguyên Giáp về việc đã quá nhân nhượng với Pháp và đã đi giật lùi. 16 giờ ngày 6/3/1946 hai phái đoàn Pháp - Việt gặp nhau, có sự chứng kiến của đại biểu Pháp, các sĩ quan chỉ huy Bộ Tham mưu Bắc Đông Dương của quân đội Trung Hoa, các quan sát viên của phái đoàn Mỹ và lãnh sự quán Anh. Võ Nguyên Giáp ghi lại một cách khinh miệt rằng: “Các vị người to béo, tác phong lịch thiệp ấy đa số là sĩ quan quân đội”, trái ngược hoàn toàn với Hồ Chí Minh – một ông già mảnh khảnh, đến để ký một văn kiện quan trọng trong bộ quần áo kaki bạc màu, đi đôi giày vải màu xanh chàm. Võ Nguyên Giáp nói về tình hình lúc đó: “Bức tranh tóm tắt tình thế lúc đó xung quanh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một vòng vây dày đặc đế quốc”.

Những hình ảnh chua xót trong quá khứ diễn ra trước mắt Võ Nguyên Giáp. Ông nghĩ đến Jules Harmand, Tổng lãnh sự và Ủy viên trưởng Cộng hòa Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ trong nhiều năm trước đây, dựa vào đại bác và quân đội đã buộc vua quan triều Nguyễn phải ký hiệp ước nhục nhã năm 1883. Ông nghĩ đến Hiệp ước Patenotre cũng do Pháp áp đặt một năm sau, đặt đất nước hoàn toàn dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Ông nhớ lại, cũng từ ngày đó độc lập dân tộc và các quyền tự do khác kể cả quyền thiết lập quan hệ với nước ngoài đều bị Pháp tước bỏ.

Võ Nguyên Giáp cũng kinh ngạc nhận thấy những thay đổi khác thường mà cuộc Cách mạng tháng Tám mang lại cho đất nước. Người dân Việt Nam bị gông xiềng trói buộc và sống khốn khổ trong nô lệ đã đứng dậy và trở thành một dân tộc tự do. Võ Nguyên Giáp nghĩ Chính phủ non trẻ của Việt Minh “đã đứng vững trong bão táp. Bây giờ kẻ thù được sự ủng hộ của một đội quân đông đảo, có máy bay và tàu chiến, xe bọc thép yểm hộ phải thương lượng bình đẳng với chúng ta.” Ông cảm thấy đây là thắng lợi ban đầu khi Pháp đã công nhận Việt Nam là một “quốc gia tự do”, từ chỗ là một dân tộc mà 63 năm trước đã bị tước đoạt hết mọi quyền tự do.

Hôm đó đại biểu hai bên ký tên vào hai văn kiện. Bản thứ nhất gọi là Hiệp định sơ bộ do Sainteny, Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh đại biểu của Việt Nam Quốc dân Đảng ký. Bản thứ hai gọi là Phụ lục quân sự do Sainteny và tướng Raoul Salan đại diện cho Pháp và Võ Nguyên Giáp đại diện cho Việt Nam ký. Thất vọng vì trong hoàn cảnh lúc đó chỉ đạt được một phần rất nhỏ mục tiêu đề ra, Võ Nguyên Giáp nhận xét đó là “văn kiện quốc tế đầu tiên mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký với nước ngoài”. Bản hiệp định này làm cho Pháp thỏa mãn hơn nhiều. Họ giữ được Nam Kỳ, vùng sản xuất lúa gạo chủ yếu, trung tâm thương mại quốc tế quan trọng. Lúc đó gạo và cao su là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của Đông Nam Á. Trưng cầu dân ý để quyết định số phận của Nam Kỳ chỉ là nguyên tắc chung, không quy định thời hạn và thể thức thực hiện. Họ có thời gian để nắm chặt hơn đất Nam Kỳ, còn Việt Minh không có cách nào ngăn cản được.

Người Pháp cũng thấy bản Phụ lục quân sự có lợi cho họ nhiều hơn. Việc hứa rút quân trong 5 năm nữa chỉ là danh dự của họ. Họ nghĩ có thể tăng thêm quân vào miền Bắc nếu việc đó trở nên cần thiết mà không có sự ràng buộc nào. Việt Minh phải duy trì trật tự cho họ mà không để tinh thần chống Pháp vượt quá giới hạn. Nếu Việt Minh có hành động nào chống Pháp, người Pháp sẽ coi đó là sự khiêu khích để biện minh cho hành động quân sự của mình. Họ tin vào “văn minh ưu việt” của họ, vào ưu thế vũ khí và kỹ thuật có thể đè bẹp bất kỳ sự đề kháng nào của Việt Minh. Cuối cùng Việt Minh có thể sẽ phải co cụm về vùng rừng núi, không dám ra ngoài, nhưng với Hiệp ước 6/3 thì Việt Minh vẫn còn hy vọng có thể giữ được thành tựu của mình mà không để xảy ra chiến tranh.

Dù cảm thấy cay đắng và chua chát nhưng Võ Nguyên Giáp vẫn cố giữ cử chỉ thân ái với kẻ thù. Ngày hôm sau (7/3/1946) ông đi Hải Phòng gặp tướng Leclerc. Ngay phần mở đầu cuộc gặp gỡ, Võ Nguyên Giáp nói về một “đảng viên tiên phong” của nước Pháp đã chiến đấu chống quân Đức trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai và ông tự mô tả mình như một “đảng viên tiên phong” của Việt Nam. Võ Nguyên Giáp muốn nhấn mạnh đây là cuộc gặp nhau của hai người ngang địa vị. Rồi ông nói đến Paris là thủ đô của văn hóa và tự do. Leclerc lẩm bẩm đáp từ và bày tỏ vui mừng được cộng tác với người Việt Nam, nói sẽ làm mọi điều cần thiết dù có hay không có người Việt Nam chung sức…

Võ Nguyên Giáp thất vọng vì cuộc tiếp xúc không đi đến đâu. Ông càng thấy bức xúc khi sắp sửa quay về Hà Nội thì nhìn thấy ở cảng từng đoàn xe bọc thép từ các họng tàu đổ bộ đang dần tiến lên bờ. Sức mạnh quân Pháp đang tăng lên quá nhanh chóng.

Trong khi Võ Nguyên Giáp quay về Hà Nội thì cuộc xung đột ở Hải Phòng giữa quân Pháp và quân Tàu Tưởng đã bắt đầu. 8 giờ 30 phút sáng hôm đó(2) những tàu đổ bộ đầu tiên của Pháp nổ súng vào sông Cửa Cấm. Quân Tàu Tưởng ở dọc bờ sông bắt đầu bắn lại. Quân Pháp bắn trả. Một kho đạn của quân Trung Quốc bị trúng đạn nổ tung cùng nhiều kho hàng chứa chiến lợi phẩm sắp chuyển xuống tàu đưa về nước. Cuộc đấu súng kéo dài gần hai tiếng, đến khoảng 11 giờ quân Trung Quốc rút lui. Võ Nguyên Giáp ghi lại tình hình: “Rất nhiều lính Pháp chết hoặc bị thương.”

Ngay chiều 7/3, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp phát biểu tại cuộc mít tinh quần chúng 10 vạn người tập hợp tại Hà Nội. Hai người khẳng định sự cần thiết của bản Hiệp định vừa ký với Pháp. Đây là lần xuất hiện trước công chúng đầu tiên của Võ Nguyên Giáp sau lần bãi chức Bộ trưởng Nội vụ, và là một bằng chứng cho thấy Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục tin vào khả năng của ông. Võ Nguyên Giáp phát biểu đầu tiên, vào lúc mà vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc.

Trong bài phát biểu, Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh các ý sau: Các nước lớn chưa nước nào công nhận nước ta, nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chống lại sự xâm lược của Pháp lúc này thì sẽ phải chiến đấu đơn độc. Nếu kháng chiến thì lực lượng cách mạng chỉ giữ được vài tỉnh. Cuộc kháng chiến có thể là rất anh dũng nhưng dân chúng sẽ phải chịu gian khổ ghê gớm. Chiến thuật vườn không nhà trống cần thiết áp dụng trong cuộc xung đột sẽ làm cuộc sống đảo lộn cả. Vì vậy, chúng ta phải ký hiệp định.

Võ Nguyên Giáp giải thích: sự thỏa hiệp sẽ hướng về hai phương diện: bảo vệ và tăng cường các vị thế chính trị, quân sự và kinh tế của chính phủ vào lúc chính quyền cách mạng còn đang trứng nước. “Một số điều khoản của hiệp định làm chúng ta hài lòng nhưng chúng ta không thỏa mãn một số điều kiện khác là nước Pháp thừa nhận nước ta là một “quốc gia tự do”. Tự do không phải là tự trị, là hơn tự trị nhưng đó chưa phải là độc lập. Giờ đây nền tự do của chúng ta đã được thừa nhận, chúng ta phải tiếp tục… cho đến khi giành được độc lập hoàn toàn”. Và Võ Nguyên Giáp hứa chắc chắn cuộc trưng cầu dân ý sẽ đem Nam Kỳ trở về với Việt Nam. Mục tiêu của cách mạng không thay đổi, đó là Việt Nam hoàn toàn độc lập.

Đám đông lắng nghe Võ Nguyên Giáp phát biểu, thái độ thay đổi hẳn. Mọi người giữ im lặng. Bỗng nhiên nổi lên vài lời tán thưởng rồi dần dần lan ra thành những tràng vỗ tay hoan hô cuồng nhiệt ầm ầm như sấm dậy do những cán bộ Việt Minh được bố trí rải rác trong đám đông để khuyến khích vỗ tay đúng lúc. Một lần nữa Việt Minh lại thành công trong việc xóa tan những mối nghi ngờ, thắc mắc, ấm ức, bực bội tạo thành áp lực ghê gớm trong dân chúng từ lúc nghe tin ký hiệp định. Việt Minh vẫn giữ nguyên được vị thế đỉnh cao của quyền lực, khôn khéo vượt qua được những thời điểm nhạy cảm nhất.

Trong những ngày tiếp theo, Võ Nguyên Giáp tận dụng triệt để mặt có lợi của Hiệp định sơ bộ 6/3 và bản Phụ lục quân sự. Tuy không giành được kết quả riêng biệt nào nhưng ông nhấn mạnh quyền được tham khảo ý kiến mỗi khi Pháp muốn di chuyển lực lượng của họ ngoài những điểm đóng quân được thỏa thuận trong phụ lục. Ngày 22/3 Võ Nguyên Giáp cùng Leclerc tổ chức cuộc duyệt binh chung Pháp - Việt và đặt vòng hoa tại đài tưởng niệm chiến sĩ tử vong Pháp và Việt. Ngày hôm đó trong diễn văn Võ Nguyên Giáp còn khen ngợi quân đội Pháp. Chắc hẳn đây là điều khó chịu đối với ông nhưng lại quan trọng đối với Đảng vì đã tìm được cách thể hiện hòa hoãn với Pháp.

Hai bên tiến hành một hội nghị quan trọng ở Đà Lạt khai mạc tối ngày 18/4/1946. Đây là một nơi nghỉ dưỡng trên núi thuộc tỉnh Lâm Đồng, giữa cao nguyên miền trung, do khí hậu tương đối mát mẻ nên trở thành một nơi nổi tiếng với người châu Âu không chịu được cái nóng của xứ Đông Dương. Võ Nguyên Giáp tham gia hội nghị Đà Lạt với cương vị Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam và người ta có dịp thấy ông là con người có lập trường chính trị kiên định, có ý chí ngoan cường trong lập luận, đấu tranh bênh vực quan điểm của ông đến cùng. Chính ở Đà Lạt mà người Pháp đặt cho ông biệt danh là “núi lửa phủ tuyết”. Đây là biệt danh hoàn toàn thích hợp với tính khí của ông: bên ngoài nhìn chung đó là một con người bình tĩnh nhưng ẩn chứa bên trong là thái độ chính trị bất biến, một tinh thần yêu nước nồng nàn và tinh thần căm thù giặc Pháp sục sôi. Một trong những người quan sát lúc đó đã miêu tả ông: dịu dàng, hiền lành nhưng kiên quyết, hàm răng luôn luôn dính chặt và không bao giờ mỉm cười. Ông có cặp mắt sáng, cương nghị.

Khi nói chuyện tay đôi, ông luôn giữ thái độ thân ái, tranh thủ được cảm tình của người đối thoại trước mặt ít nhất khi hai người thân mật xưng hô “mày - tao” với nhau. Nhưng Võ Nguyên Giáp đã không giấu nổi sự thất vọng khi ông lên tiếng rằng hội nghị phải đề cập các vấn đề liên quan đến Nam Kỳ, thì các đại biểu Pháp khẳng định ngay họ không được quyền thảo luận bất cứ vấn đề gì liên quan đến Nam Kỳ. Họ nói ở đó đã bình định xong, chỉ trừ một vài cuộc hành quân cảnh sát. Võ Nguyên Giáp nói gần như quát lên: “Nói như thế là thách thức với thực tế. Sự thật là ở đó các cuộc giao chiến đang diễn ra khắp nơi. Chúng tôi không bao giờ buông vũ khí... Chúng tôi muốn hòa bình, đúng thế, nhưng là một nền hòa bình trong tự do và công bằng, một nền hòa bình phải phù hợp với tinh thần bản Hiệp định sơ bộ ngày 6/3 chứ không phải hòa bình trong nhẫn nhục, mất danh dự và nô lệ”. Rồi ông tiếp tục nhấn mạnh lập trường của Việt Minh: “Chúng tôi đòi đình chỉ các cuộc tiến công vào quân đội của chúng tôi ở miền Nam và sự nhục nhã bi thảm đó phải chấm dứt”. Ông đột nhiên lấy lại bình tĩnh, nghiêng người về phía trước với một nụ cười bí hiểm trên khuôn mặt. Ông nói về tuổi thanh niên của ông, về vợ ông đã bị bỏ tù và giết hại ra sao, cuộc đời ông đã trải qua những sóng gió như thế nào. Dừng lại suy nghĩ một lúc, ông nói tiếp rằng ông có thể xóa hết mọi đau khổ, chìa bàn tay thân ái, dành sự căm thù với những kẻ có trách nhiệm gây ra những thảm kịch đó.

Pierre Auguste Joseph Messmer, một đại biểu Pháp, sau này là Bộ trưởng Quốc phòng và Thủ tướng đứng lên trả lời Võ Nguyên Giáp. Ông nhắc lại sau khi bị Việt Minh bắt năm 1945, ông đã bị áp giải khổ sở như thế nào ở Bắc Kỳ, sau đó là bị bỏ tù. Ông kể lại chuyến đi dài vô tận hàng cây số, tay bị xiềng xích, thỉnh thoảng lại bị quất vào lưng. Bạn ông, đại úy Brancourt đã bị những người canh gác giết hại và bản thân ông nhờ có phép màu mới thoát được. Võ Nguyên Giáp đứng im khi Messmer tiếp tục: “Nếu tôi nhớ không nhầm thì lúc đó ông là Bộ trưởng Nội vụ”. Võ Nguyên Giáp gật đầu công nhận. Tức thì Messmer nói luôn: “Tôi cũng vậy, tôi không căm thù gì…, tôi cũng chìa tay, … Tóm lại cả hai chúng ta cùng hoàn cảnh”. Messmer ngồi xuống, có vẻ khoái trá về đòn trả đũa của mình.

Một người quan sát có thể nhận thấy cái cốc Võ Nguyên Giáp đang cầm trong tay rung lên. Tất nhiên hai hoàn cảnh không tương tự và cũng không phải là trường hợp của Pháp và Việt Nam hiện nay. Một sự hàn gắn có thể xảy ra khi những người đáng căm ghét kia phải ra đi từ lâu khỏi đất nước này. Võ Nguyên Giáp rời Đà Lạt với ý nghĩ chiến tranh là không thể tránh khỏi.

Ít lâu sau hội nghị Đà Lạt, có thể là đặt trước một việc đã rồi, người Pháp báo tin thành lập Cộng hòa Nam Kỳ có trụ sở tại Sài Gòn. Đó là ý tưởng của Thierry d’Argenlieu và của Cédil bất chấp lời hứa ngày 6/3 là sẽ tuân theo kết quả trưng cầu dân ý để giải quyết quy chế đối với phần lãnh thổ phía nam của Việt Nam.

Khi tin thành lập chính phủ đó được công bố, Hồ Chí Minh lúc này không có mặt ở Việt Nam. Ngày 31/5, Hồ Chí Minh và phái đoàn đàm phán do Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn đã đến Paris dự Hội nghị Fontainebleau. Cuộc đàm phán bắt đầu vào ngày 6/7, kéo dài đến khi hội nghị tan vỡ vào tháng 8. Sau đó, khi các đoàn trở về nước thì Hồ Chí Minh ở lại Pháp cố gắng cứu vãn tình hình.

Chính là trong thời gian 4 tháng vắng mặt Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp đã chứng tỏ khả năng và nghị lực làm việc của ông. Trong lúc được giao làm quyền Chủ tịch nước(3), ông đã cáng đáng được nhiều công việc quan trọng. Ông nhấn mạnh tất cả các đảng phải đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất Liên Việt. Đa số từ chối tham gia Liên Việt vì hiểu rằng những vị trí then chốt trong liên minh đó đều trong tay Việt Minh. Là một người Macxit Lêninnit trung thành, hiểu theo cách này hay cách khác, Võ Nguyên Giáp quyết định Việt Minh phải hoàn toàn một mình điều khiển bộ máy chính quyền.

Sự có mặt của quân đội Tưởng Giới Thạch cho tới lúc đó đã đảm bảo sự tồn tại của Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội. Hai đảng này không có một chương trình gắn kết với nhau để tranh thủ dân chúng như Việt Minh. Những người lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đồng minh hội thì còn xa mới có được những phẩm chất có thể so sánh với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và những người có trách nhiệm khác của Việt Minh. Từ khi người lính cuối cùng của quân đội Tưởng Giới Thạch rời khỏi đất nước, ngày 15/6/1946, Võ Nguyên Giáp hối hả hành động ngay. Mục tiêu rải khắp nơi: Đồng minh hội được Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch ủng hộ, Việt Nam Quốc dân Đảng mượn danh cách mạng của Việt Nam Quốc dân Đảng năm 1930 do Nguyễn Thái Học sáng lập, nhóm quốc gia thân Nhật Đại Việt, những phần tử tờ-rốt-kít phân tán khắp nơi trong nước, những người quốc gia chống Pháp, những người đột lốt Công giáo mang tên “chiến sĩ Công giáo”. Võ Nguyên Giáp đã từng bước tìm cách loại bỏ dần các đảng phái, phần tử phản động này.

Để làm được việc này, Võ Nguyên Giáp không chỉ dựa vào cán bộ Việt Minh quen thuộc mà còn sử dụng một đơn vị đặc biệt. Năm 1945, ông đã thu nạp 1.500 quân Nhật Bản cuồng tín chống “người da trắng” tình nguyện phục vụ cho quân đội của Võ Nguyên Giáp sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh. Ý tưởng quay về Tổ quốc bại trận và bị chiếm đóng không hấp dẫn gì số quân nhân này. Trong số đó có 230 hạ sĩ quan và 47 nhân viên hiến binh Nhật cũ. Đứng đầu là đại tá Mukayama, sĩ quan tham mưu của quân đoàn 38. Võ Nguyên Giáp cho họ được hưởng quốc tịch Việt Nam và được cấp giấy căn cước giả. Mukayama trở thành một trong những trợ thủ hăng hái của Võ Nguyên Giáp, bao giờ cũng có mặt mỗi khi phải tấn công vào các đối thủ của Việt Minh. Đó là trường hợp hiện nay. Trong công việc này, không phải là không nghịch lý, Võ Nguyên Giáp tìm được sự ủng hộ của Pháp. Vì lý do này hay lý do khác, người Pháp thích điều đình với Việt Minh hơn là dính dáng với một nhóm người chỉ muốn ganh đua với Việt Minh.

Trong bối cảnh đó, ngày 19/6/1946, báo Cứu quốc của Tổng bộ Việt Minh ấn hành ở Hà Nội đăng một bài xã luận kịch liệt đả kích “bọn phản động - bọn phá hoại” Hiệp định sơ bộ Pháp - Việt ngày 6/3.

Võ Nguyên Giáp bắt đầu chiến dịch truy quét, được công an quân đội giúp sức và cả sự hợp tác của nhà cầm quyền Pháp. Khi quân Pháp nắm quyền kiểm soát khu vực do Đồng minh hội kiểm soát trong vùng mỏ Hòn Gai chẳng hạn, họ phải giải thoát trước hết những thủ lĩnh Việt Minh bị Đồng minh hội bỏ tù và giao cho họ quyền quản lý địa phương. Đồng thời Pháp cung cấp cho họ những khẩu pháo để diệt một số vị trí ở bên cạnh do quân Đại Việt chiếm giữ.

Thời gian trôi qua, người Pháp cố gắng lập lại sự kiểm soát ở Đông Dương. Ngày 18/7 tướng Leclerc chỉ huy quân Pháp bị triệu hồi và trung tướng Jean Etienne Valluy thay thế. Valluy sẽ là người đầu tiên trong số nhiều tướng lĩnh Pháp đặc biệt được giao nhiệm vụ khó khăn là đương đầu với Võ Nguyên Giáp và quân đội Việt Minh. Valluy, 46 tuổi, tương đối thông thạo nghề binh, là một sĩ quan được thưởng nhiều huân chương cao quý, nhập ngũ năm 1917 ở tuổi 18, lúc đầu chỉ là lính thường. Sau một năm chiến đấu trong chiến hào, ông được cử đi học trường võ bị đặc biệt Saint-Cyr và tốt nghiệp năm 1918. Ông trở lại làm lính tiên phong ở trận địa chiến hào. Ông bị thương và được thưởng huân chương chữ thập.

Sau chiến tranh Valluy tiếp tục ở lại trong quân ngũ và giữ nhiều chức vụ trong Bộ Tham mưu rồi chỉ huy đơn vị phần lớn thời gian ởthuộc địa Maroc và Senegal. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, ông là tiểu đoàn trưởng, sĩ quan tác chiến quân đoàn XXI bị Đức bắt làm tù binh năm 1940 và giao cho Chính phủ Vichy thân Đức năm 1941. Ba năm sau, rất nhanh ông đã trở thành chuẩn tướng và tham mưu trưởng cho tướng Jean de Lattre de Tassigny (sau này từ năm 1950 - 1951 Tassigny được cử sang Đông Dương làm Tổng chỉ huy quân Pháp kiêm Cao ủy tại Đông Dương). Đầu năm 1946, ông được cử làm chỉ huy quân Pháp ở Bắc Bộ. Ngày 20/2/1947 ông được thăng quân hàm trung tướng(4) và trở thành Tổng chỉ huy quân Pháp toàn Đông Dương.

Võ Nguyên Giáp không đánh giá cao tướng Valluy. Ông có nhiều dịp được gặp và làm việc với Valluy trong các cuộc thảo luận về các vấn đề quân sự. Mặc dù bề ngoài, Valluy được đánh giá là sĩ quan dễ chịu, cởi mở, lịch sự nhưng Giáp nghi ngờ ông là “con người nham hiểm”.

Ngày 21/6/1946, trong lúc Võ Nguyên Giáp đang làm việc, thì viên thư ký báo cáo có tướng Valluy đợi ở ngoài cửa, muốn được gặp. Vừa bước vào, Valluy chào hỏi Võ Nguyên Giáp và tuyên bố: “Tôi là một quân nhân có nghĩa vụ phải tuân lệnh cấp trên. Tôi đến đây để trao cho Ngài một thông điệp gửi Chính phủ Việt Nam”. Võ Nguyên Giáp trả lời: “Ông hãy đưa cho tôi”. Valluy bèn đưa cho Võ Nguyên Giáp một bức thư và chờ đợi. Võ Nguyên Giáp mở phong bì đọc lướt nhanh bức thông điệp ngắn ngủi gửi cho ông với tư cách là người đại diện cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Cao ủy Pháp tại Đông Dương – Đô đốc Thierry d’Argenlieu – đã ra lệnh cho quân đội Pháp chiếm cao nguyên của bộ lạc Mọi như đã thông báo rước đó cho Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội”.

Bộ lạc Mọi sống ở trên cao nguyên miền tây Trung Kỳ, một vùng đất được coi như thiêng liêng của Việt Minh, bởi vì trước đây là một phần của khu giải phóng trong những năm đen tối của Chiến tranh thế giới thứ hai. Thierry d’Argenlieu đã có ý định thiết lập ở đó một nước cộng hòa miền núi bù nhìn gọi là Cộng hòa Tây Kỳ tách khỏi Việt Minh của Hà Nội nhằm làm suy yếu ảnh hưởng của Việt Minh. Hành động đó như Võ Nguyên Giáp nhận xét sau này là “một bước gây hấn mới của một thầy tu đã phá bỏ lời thề”. Đó là cách Võ Nguyên Giáp thường hay nói về Thierry d’Argenlieu, vì thời trẻ d’Argenlieu đã đi tu theo dòng Carmelite. Gần đến Chiến tranh thế giới thứ hai, Thierry d’Argenlieu bỏ tu quay về hải quân tham gia lực lượng quân đội nước Pháp tự do của De Gaulle. Ông được bổ nhiệm Cao ủy (tương đương như Toàn quyền trước đây) tại Đông Dương tháng 8/1945.

Võ Nguyên Giáp ngước mắt nhìn người khách và đuổi khéo:

-Nếu ông đến đây chỉ để truyền lệnh của cấp trên, nhiệm vụ đó coi như đã xong.

Valluy bước ra ngoài. Võ Nguyên Giáp tức giận chờ đợi tin tức mới, và ngay chiều hôm đó, báo cáo dồn dập gửi về Bộ Tổng tham mưu của ông. Máy bay Pháp bay thấp đã ném bom các vị trí đóng quân của Việt Minh. Lính Pháp cũng được liên tiếp phái đến, nhưng vấp phải sự kháng cự quyết liệt nên rút lui. Ngày hôm sau chúng lại tiến công và một lần nữa chúng lại phải rút. Ngày 23/6 quân Pháp mở cuộc đột kích bất ngờ vào bộ đội Việt Minh đang di chuyển từ Pleiku đi Campuchia. Chiến sự dần mở rộng.

Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho các đơn vị đánh bại mọi hành động xâm lược của quân Pháp. Người ta tuyên bố rõ ràng rằng Hồ Chí Minh không bao giờ đồng ý cho Pháp chiếm đóng Tây Nguyên. Những hành động của Pháp thuyết phục Võ Nguyên Giáp nếu có cần những chứng cớ thì giải pháp duy nhất là quân sự. Ông biết kiểu xung đột như thế sẽ chỉ có thể là chiến tranh kéo dài. Chỉ có chiến tranh lâu dài mới có điều kiện cần thiết để Việt Minh giành chiến thắng. Không bên nào có thể tránh được cuộc đụng độ bằng đòn đánh phòng ngừa. Vì vậy, ông tiếp tục ra lệnh di chuyển kho đạn về các căn cứ xung quanh Thái Nguyên và Hòa Bình, xây dựng ở đó xưởng quân khí nhỏ để sản xuất các loại vũ khí thô sơ.

Các vụ khiêu khích của quân Pháp ngày càng tăng. Lính Pháp không ngừng gây sự dọc con đường Hà Nội - Lạng Sơn. Trong tỉnh Bắc Ninh, một vụ đụng độ nghiêm trọng xảy ra kéo dài bốn tiếng rưỡi làm cả hai bên đều có người chết. Ngày 25/6 quân Pháp chiếm Phủ Toàn quyền ở Hà Nội do bộ đội Việt Minh tiếp quản từ tháng 8/1945. Võ Nguyên Giáp đưa công hàm phản kháng đến Valluy. Ngày 27, để trả đũa, Việt Minh yêu cầu dân chúng bãi thị ở Hà Nội, Hải Phòng và những nơi có quân Pháp đóng.

Võ Nguyên Giáp tin rằng đằng sau các vấn đề đó là quyết tâm của thế lực “phản động” Pháp tạo ra các vụ nghiêm trọng để phá hoại các cuộc thương lượng ngoại giao đang diễn ra tại Fontainebleau. Cách đối phó duy nhất là chỉ tỏ thái độ kiên quyết trước sự khiêu khích của Pháp.

Mọi việc đều không mấy sáng sủa trong những ngày làm việc căng thẳng của Võ Nguyên Giáp từ cuối mùa xuân đến mùa hè năm 1946. Sau khi trở về Hà Nội tháng vào 8/1945, ông đã về An Xá thăm con gái, bé Hồng Anh. Ông cũng thường xuyên qua lại thăm hỏi Giáo sư Đặng Thai Mai vừa là thầy học vừa là bạn cũ. Việt Minh đã mời Giáo sư làm Bộ trưởng Giáo dục đầu năm 1946. Mặc dù nhiệm vụ của hai người rất khác nhau nhưng trách nhiệm trong chính phủ khiến hai người có dịp gặp nhau nhiều hơn. Cũng như trước đây, Giáo sư Đặng Thai Mai thường mời Võ Nguyên Giáp đến ăn cơm thân mật tại gia đình mỗi khi có thời gian rảnh rỗi.

Trong lần thăm đầu tiên, Võ Nguyên Giáp ngạc nhiên về những đổi thay trong gia đình Giáo sư những năm qua. Khi còn ở trọ nhà Giáo sư tại Vinh vào năm 1932, Võ Nguyên Giáp thích chơi với một trong những người con gái của thầy học là Đặng Bích Hà kém ông 18 tuổi. Lúc đó Hà mới chỉ là cô bé bốn tuổi thường hay gọi Võ Nguyên Giáp bằng chú. Nay cô bé đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp duyên dáng và thùy mị. Cô rất có ấn tượng về chàng trai mà cô ngưỡng mộ như một vị anh hùng của dân tộc thường hay đến thăm cha cô. Võ Nguyên Giáp lúc này đã 35 tuổi, gần gấp đôi tuổi cô nhưng vẫn sống độc thân và luôn luôn ngập đầu trong hàng đống công việc. Chính vì vậy, khi Võ Nguyên Giáp ngỏ lời cầu hôn với con gái mình, Giáo sư Đặng Thai Mai đã gật đầu đồng ý ngay.

Sau khi cưới, Đặng Bích Hà tiếp tục học chuyên ngành sử và sau này đi học chuyên tu ở Matxcơva. Sau đó Hồng Anh ra ở với cha và mẹ kế. Khi được hỏi về cuộc sống của Võ Nguyên Giáp, Đặng Bích Hà trả lời: “Ông ấy có tinh thần hy sinh rất cao. Đó là nét nổi bật về cá tính của ông”. Còn Hồng Anh thì nói thêm: “Bố rất yêu quý con và dì nhưng hiếm có thời gian để gặp mặt cùng nhau”. Năm 1951, Bích Hà sinh con gái đầu lòng là Võ Hòa Bình. Năm sau họ có thêm một đứa con thứ hai nữa là Võ Hạnh Phúc. Năm 1954, họ sinh một con trai, được đặt tên theo chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là Võ Điện Biên và năm 1956, hai ông bà sinh thêm một người con trai nữa đặt tên là Võ Hồng Nam với ý nghĩa thể hiện quyết tâm của ông “tạo ra một miền Nam đỏ”. Võ Nguyên Giáp rất yêu mến vợ con nhưng ông thường quá bận rộn, nên không có nhiều thời gian dành cho gia đình. Ông nhớ lại giữa thời kỳ trăng mật của hai vợ chồng, thế mà trong đầu ông luôn vang lên tiếng hô xung trận thôi thúc ông trở về với nghĩa vụ và cuộc đụng độ không thể tránh được với người Pháp.

1. Tư liệu riêng của tác giả (BT).
2. Tác giả nhầm về thời gian. Cuộc xung đột giữa Pháp và Trung Hoa ở Hải Phòng bắt đầu lúc sáng sớm ngày 6/3/1946 trong lúc tại Hà Nội, cuộc đàm phán Pháp - Việt đi vào giai đoạn cuối. Sáng 8/3 Võ Nguyên Giáp mới đi Hải Phòng gặp Leclerc (ND).
3. Tác giả nhầm, quyền Chủ tịch nước trong lúc Hồ Chí Minh đi Pháp là cụ Huỳnh Thúc Kháng, còn Võ Nguyên Giáp cáng đáng các công việc trong Bộ Nội vụ (ND).

<<Chương 8 “Chúng tôi sẽ phải dùng đến vũ khí” Chương 10 “Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng” >>

Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Cờ lau dựng nước

Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt