Chiến thắng bằng mọi giá
Lời mở đầu
Lời mở đầu
Chiến thắng bằng mọi giá là cuốn cuối cùng của bộ ba cuốn sách viết về Việt Nam mà tôi đã bắt đầu viết từ hơn 15 năm trước. Cuốn đầu tiên, Tự hủy diệt (Self-Destruction, 1981) chỉ ra Hoa Kỳ đã thất bại trong nỗ lực biến Việt Nam Cộng hòa thành một quốc gia độc lập không cộng sản. Thất bại này phần lớn do thái độ và những thực hiện trong nội bộ quân đội Hoa Kỳ. Quân đội đó không hiểu đối thủ, do đó không tìm thấy một chiến thuật thích hợp để đương đầu. Đường lối quân sự của Hoa Kỳ phiến diện một cách đáng xấu hổ và sai lầm rõ ràng. Quân đội Mỹ đã quá dựa vào công nghệ tiên tiến và sử dụng một cách lố lăng hỏa lực của mình. Quân đội ấy hoạt động giống như khi nó truy kích các đơn vị kẻ thù của các nước trong khối Warzaw qua vùng đồng bằng trung tâm châu Âu. Quân đội ấy đã phớt lờ những lời kêu gọi thay đổi từ nội bộ.
Những người chịu trách nhiệm về quân sự Mỹ, khi đó cũng như sau này, không chịu thừa nhận mắc phải sai lầm ở Đông Nam Á. Người ta thường giải thích về thất bại ở Việt Nam bằng một từ đã được quân đội Đức sử dụng để nói về sự bại trận của mình trong Thế chiến thứ nhất 1914 - 1918 là Dolchstosslegende tức là “đánh sau lưng”, có nghĩa quân đội thua ở mặt trận là do những can thiệp chính trị vào đường lối chiến tranh và những rối loạn trong nội bộ đất nước. Thực tiễn đơn giản hơn: thảm họa quân sự ở Việt Nam là do sự ngu ngốc của các sĩ quan cao cấp nhất ở chiến trường. Nó đã trở thành công cụ dễ bị phá vỡ của chiến tranh.
Khi tôi viết về sự can thiệp quân sự thất bại của Mỹ ở Việt Nam, sự thất bại càng trở nên rõ ràng hơn tất cả những gì nó vẫn được nói. Trong quá trình tìm tư liệu để viết cuốn Tự hủy diệt, tôi thường xuyên bắt gặp dấu vết hoạt động của một cá nhân bí hiểm, mơ hồ tại Đông Nam Á, Edward Geary Lansdale. Ông ta đã gợi ý những cách tiếp cận khác tại Việt Nam có thể sẽ đem lại sự thấu hiểu sâu sắc và giá trị: Lansdale thường chứng minh rằng Hoa Kỳ, nếu đi theo một chiến lược khác, thích nghi hơn ở Phương Đông sẽ có thể thắng. Đó là điều đã làm tôi say mê không dứt ra được. Tôi muốn biết nhiều hơn nữa. Chúng ta có thể làm được gì khác ở Việt Nam để làm cho chính sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam giành được thắng lợi. Có thể Lansdale sẽ tiết lộ cho tôi biết. Những cố gắng của tôi lên tới tột đỉnh trong cuốn sách về Edward Lansdale nhan đề Người Mỹ lo lắng (The Unquiet American, 1988).
Khi Lansdale đề cập đến các nước thuộc thế giới thứ ba, ông thường đưa ra ý kiến nên mở cửa và tạo nên sự tin cậy để chống lại cuộc nổi loạn của cộng sản. Ông khuyên rằng mục tiêu chủ yếu của Hoa Kỳ là phải tranh thủ những người địa phương. Một dân tộc bị cuộc cách mạng đe dọa không thể tự cho phép chỉ dựa vào các cuộc hành quân. Chỉ với các cuộc hành binh, sẽ không đủ sức đánh bại một kẻ thù quả quyết và dũng cảm. Lansdale là một trong số rất hiếm người Mỹ trong thời của ông hiểu được bản chất kẻ thù của mình.
CIA phái ông đến miền Nam Việt Nam từ năm 1954, tin tưởng vào khả năng của ông có thể thiết lập được mối quan hệ với người châu Á. Ông đã giúp đỡ, cố vấn cho Ngô Đình Diệm từ năm 1954 đến năm 1956 để đi những bước đầu tiên hướng tới thành lập một chính phủ ổn định không cộng sản ở miền Nam Việt Nam. Công việc sắp thành công đến nơi. Lansdale quả là người khổng lồ đúng nghĩa trong hành động của các cuộc xung đột thời hiện đại.
Không thể nghiên cứu con đường công danh của Lansdale nếu không đối lập nó với những quan điểm của người lãnh đạo trứ danh ở miền Bắc là Võ Nguyên Giáp mà chiến thuật, chiến lược của ông đã giúp đất nước ông đánh thắng cả hai lực lượng mạnh nhất là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đây chính là nền tảng cho cuốn sách cuối cùng này trong bộ ba cuốn sách về Việt Nam.
Võ Nguyên Giáp là một thiên tài quân sự. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông vạch ra chiến thuật, chiến lược đã giúp đất nước ông chiến thắng những kẻ thù mạnh nhất. Nghiên cứu những hoàn cảnh, yếu tố nào đã giúp ông bộc lộ, phát triển tài năng hiếm có ấy chính là chủ đề của cuốn sách này. Độc giả sẽ không tìm thấy ở đây những chi tiết về lịch sử Việt Nam cũng như nhận thức của Mỹ về chiến tranh, hay bất kỳ phân tích nào về những xung đột trong lòng xã hội Hoa Kỳ. Nhiệm vụ của tôi là điều chỉnh lại hồ sơ và đưa ra quan điểm của người Việt Nam về cuộc xung đột ở Đông Nam Á cũng như về vai trò của Tướng Giáp trong cuộc chiến đấu đánh bại người Pháp rồi người Mỹ. Chỉ với sự đào sâu đó chúng ta mới hiểu được đầy đủ kết cục của cuộc chiến cũng như hình thức chiến tranh mà Võ Nguyên Giáp đã sử dụng hiệu quả.
Vị tướng tự học đó đã học nghệ thuật quân sự ngay trong thực tế khói lửa của chiến trường. Trong suốt cuộc đời binh nghiệp của mình ông đã chạm trán với binh sĩ của Pháp, Nhật, Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa (chính họ là những đồng bào, anh em ruột thịt ở miền Nam), Campuchia và Trung Quốc. Có lẽ, không một vị tướng lĩnh nào đã chiến đấu chống lại nhiều kẻ thù khác nhau và đã giành được nhiều thắng lợi như thế. Tuy nhiên ở phương Tây, ông là con người tương đối bí hiểm. Bất kể ai nghiên cứu về Tướng Giáp đều nhanh chóng phát hiện ra rằng gần như ông không được nhắc đến tại Hoa Kỳ dù nhiều năm qua ông là kẻ thù chính của họ. Hầu như không có bài viết nào về 20 năm quan trọng trong cuộc đời ông từ năm 1944 đến 1964, khi ông thành lập một lực lượng vũ trang sẽ làm lung lay nền thống trị của Pháp ở Đông Dương và mở cuộc tiến công, giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ, tiếp đó sử dụng du kích để tiến công chính phủ được Mỹ ủng hộ ở phía nam vĩ tuyến 17 và chuẩn bị đối mặt với quân đội hùng mạnh của Hoa Kỳ. Về cuộc đời trước đó của ông, còn ít nguồn tài liệu hơn. Tệ hơn nữa là có nhiều điều khẳng định sai lầm có mục đích hơn là đưa ra những đánh giá đúng đắn, đầy đủ về Tướng Giáp. Cuốn sách này sẽ đưa ra sự thẩm định chính xác và đầy đủ hơn về con người phi thường này.
Thật khó để mổ xẻ các chi tiết trong cuộc đời của Võ Nguyên Giáp, ngay cả khi trò chuyện với những người quen biết ông cũng không cung cấp được gì quan trọng. Như là một nét văn hóa, người Việt thường có thái độ nghiêm mật một cách quá đáng. Họ thường giữ kín cuộc sống riêng tư của mình, tránh để lộ thông tin với những người không quen biết và những ai tò mò. Có lẽ họ nhớ lại những năm dài dưới ách thống trị thực dân và Phòng Nhì của Sở Mật thám Pháp sục sạo khắp nơi dò la mọi chốn về những tin tức của những ai gây nguy cơ cho nền đô hộ đó…
Tuy nhiên, một khối lượng thông tin vẫn có thể sẵn sàng được cung cấp, những tài liệu Việt Nam xuất bản bằng tiếng Anh, nhiều bài viết khác được bạn bè dịch giúp tôi, những văn kiện chính thức của chính phủ, những công trình nghiên cứu dù gián tiếp nhưng hữu ích đã hướng tôi đến những nguồn có thể sử dụng được, đó là không kể những người Việt Nam biết rõ Tướng Giáp đã kể cho tôi nghe nhiều kỷ niệm về ông, những người Mỹ mà tôi đã phỏng vấn về quá khứ từng dính líu đến tình báo Mỹ hay các cơ quan của chính phủ mà hồ sơ của họ về thời kỳ đó đã bị lưu trữ suốt nửa thế kỷ qua, cho tới những học giả trong lĩnh vực này đã vui lòng chia sẻ với tôi những hiểu biết của họ.
Có lẽ, hữu ích nhất cho việc viết cuốn tiểu sử này là sự giúp đỡ của chính Tướng Giáp, ông đã vui lòng cung cấp cho tôi nhiều thông tin dù còn hạn chế về cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Tháng 12/1988 ông đã đồng ý gặp tôi và cho phép tôi phỏng vấn ông. Khi trở về, tôi đã quyết định viết cuốn sách này. Tôi trở lại Hà Nội vào tháng 12 năm sau. Đây là chuyến đi thứ ba của tôi đến Việt Nam, dự định sẽ có những cuộc trò chuyện thường xuyên với Tướng Giáp. Nhưng tôi đã không thể thực hiện được dự định này. Mặc dù trong lời khai xin thị thực nhập cảnh tôi ghi rõ mục đích của chuyến viếng thăm Việt Nam là phỏng vấn Tướng Giáp, ông Đào Huy Ngọc, Giám đốc Học viện Quan hệ quốc tế của Bộ Ngoại giao cho tôi biết khi mới đến là theo một “người có trách nhiệm ở cấp cao” – ông Ngọc không nói rõ tên – thì không phải là dễ dàng được Tướng Giáp trả lời phỏng vấn. Sau cuộc gặp gỡ với ông Ngọc, tôi rất khó khăn mới có thể gặp lại chính những người bạn mà tôi đã được gặp trong các chuyến viếng thăm trước.
Tôi đã viết cho Tướng Giáp nhiều lần, các thư từ của tôi gửi đi đều không có hồi âm. Tôi không biết có nên khiếu nại Bưu điện Việt Nam không, hay người nhận thư của tôi được lệnh lờ đi không trả lời, coi như không nhận được! Sau này tôi được biết thư từ của tôi đã không đến tay ông. Nhưng cuối cùng tôi cũng cho ông biết được ý định của tôi. Ông nhớ ra và biểu thị sự vui mừng vì theo lời ông, ông muốn mọi cuốn sách viết về ông ở phương Tây phải được viết trung thực và nghiêm túc bởi một “nhà sử học có lương tâm”.
Ông trả lời những câu hỏi của tôi và ông còn gửi cho tôi nhiều tấm ảnh của ông cùng vợ và các con. Trên các trang viết mà tôi nhận được, ông kể cho tôi nghe về gia đình, dòng tộc, quê hương, về những năm tháng đi học, về niềm say mê với chủ nghĩa cộng sản từ rất sớm, về chuyện ông bị kết án tù, chuyện ông làm nghề báo, về người vợ đầu và đứa con gái đầu lòng của ông, thời gian ông dạy ở một trường trung học tư thục tại Hà Nội, lòng căm thù thực dân Pháp khôn nguôi, ý chí quyết tâm đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam, lúc ông bí mật sang Trung Quốc khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ và cuộc sống của ông tại vùng đồi núi phía bắc trong thời gian kháng chiến chống Pháp.
***
Ông kể cho tôi nghe về chuyện thành lập đội quân đầu tiên, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, chuyện những người của OSS (Office of Strategic Services – Cơ quan tình báo chiến lược) trong những ngày cuối của chiến tranh đã đến để làm việc với binh sĩ Việt Minh. Ông kể về người vợ thứ hai và những đứa con của mình, về thôn xóm và cha mẹ ông. Ông kể với ngôn ngữ giản dị đời thường chứ không phải như một người học vẹt về ý thức hệ. Ông đưa ra một câu trả lời hóm hỉnh khi người ta nói đùa ông về bí danh cũ. Ông nói về những đứa cháu nội, cháu ngoại.
Thế rồi, quên rằng ông đã thỏa thuận trước đó với tôi, ông từ chối không trả lời thẳng những câu hỏi mà tôi đã nêu ra. Ông luôn ngỏ lời xin lỗi. Ông cho biết ông đã đi thăm chỗ này chỗ khác, tham dự nhiều buổi lễ lạt, nhiều buổi họp kỷ niệm lịch sử, để tang một người em. Cuối cùng ông thẳng thắn giảng giải cho tôi. Ông đã cung cấp không ít tư liệu và dù sao những câu hỏi mới của tôi đã “xuất phát từ những tư liệu không nghiêm túc, thậm chí sai lạc và phản động”. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tôi, đề ngày tự tay ký tên vào bản thảo của cuốn sách này.
∗∗∗
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn đối với vị thống soái Võ Nguyên Giáp. Ông, tất nhiên, là một trong nhiều người đã tham gia vào việc tạo nên cuốn tiểu sử này. Tôi cũng xin cảm ơn những người, khá nhiều, đã tham gia vào việc soạn thảo cuốn tiểu sử này. Bộ phận đỡ đầu việc nghiên cứu của trường Đại học Nam Florida và Tiến sĩ Julia Davis, Trưởng khoa tiền nhiệm của trường Đại học Khoa học Hành vi và Xã hội đã phái một trợ lý nghiên cứu giúp tôi năm 1990. Các cơ quan lưu trữ Đông Dương ở Berkeley, California, đã giúp tôi tìm hiểu thêm về thân thế và sự nghiệp của Tướng Giáp qua hồ sơ lưu trữ của họ. Françoise Jean và Pascuele Lavendaire đã thẩm định một số bản dịch. Virginia Gift đã giải đáp cho tôi nhiều thắc mắc, nghiên cứu các tập lưu trữ và tìm cách để tôi gửi những câu hỏi đến tướng Võ Nguyên Giáp.
Rất nhiều người Việt Nam, hiện đang sinh sống ở Việt Nam và Hoa Kỳ đã giúp tôi đi đến tận cùng dự định này, trong số đó phải kể ra Hồ Thị Quang, Kim Dung Trần - Ngọc, hai chị em Hà Xuyên - Hà Mai, Trịnh Xuân Lãng, Nguyễn Đăng Quang, Trần Minh, Đỗ Tín Nhâm, Nguyễn Đăng Thuyên, Phạm Bình, Châu Phong, Bùi Tín, tướng Cao Pha, tướng Trần Công Mân, Đinh Miên, Nguyễn Thăng Long, Nguyễn Quốc Hải và vợ, bà Hồ Thị Xuân Hồng và người phiên dịch của tôi, người bạn đồng hành trong suốt hành trình ở Việt Nam, người bạn và “em út” Lê Hồng Lâm đã làm việc tích cực để cho cuộc viếng thăm thứ nhất và thứ hai của tôi ở đất nước Việt Nam trở thành chuyện đáng ghi nhớ mãi. Ở cả Thái Lan và Việt Nam, tôi nhận được sự giúp đỡ của nhiều người Thái có thiện chí như các ông Pradorn Ucharatna, Yothin Piraphatanapong (Peter Johnson) và Vudhi Lenbury.
Tại Mỹ, các ông T. Edward Henley ở Tigard bang Oregon, Will Brownell, Giám đốc Dự án Thư mục về Việt Nam tại Trường Đại học Columbia và Đại tá John K. Brier, Giám đốc Điều hành phụ trách đón tiếp khách quốc tế của Hội đồng Tampa Bay. Đặc biệt, Đại tá Brier đã giúp tôi một việc vô cùng giá trị khi ông giúp tôi tiếp xúc với chuẩn tướng Vĩnh Lộc của quân đội Việt Nam Cộng hòa (cũ). Tất cả họ đều góp cho tôi những ý kiến bổ ích và mang lại những thảo luận đầy hào hứng.
Làm việc tại nhà ở California, tướng Vĩnh Lộc đã tham khảo nhiều bạn bè, hội đồng hương Quảng Bình, đi hàng cây số để tìm tư liệu và bằng những kiến thức rộng rãi của mình, ông đã giúp tôi hoàn thành cuốn sách. Ông bỏ nhiều thời giờ để ghi lại trên giấy những hồi ức của ông, cuộc sống ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, phong tục tập quán và các truyền thống của triều đình, những cuộc biểu tình vào ngày 1/5/1930, những biện pháp của cảnh sát Pháp, thái độ của người Việt Nam đối với thực dân Pháp trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai, giáo dục tiểu học ở Việt Nam cách đây bảy thập kỷ, việc xây dựng cơ sở vật chất và chương trình đào tạo ở Trường Quốc học Huế – ngôi trường mà Võ Nguyên Giáp đã từng theo học, cảnh quan An Xá – quê hương của Tướng Giáp, những kỷ niệm của chính bản thân ông về Tướng Giáp và nhiều chi tiết khác nữa. Sự giúp đỡ của tướng Vĩnh Lộc đã vượt xa mọi điều mong đợi và tôi chịu ơn ông nhiều lắm.
Sheila Simon-Derrwaldt, nữ trợ lý nghiên cứu của tôi đã giúp tôi nhiều việc, đều đặn và mang tính chuyên nghiệp. Jennifer Bexley đã vẽ những tấm bản đồ giúp độc giả hiểu dễ dàng hơn việc nghiên cứu về cuộc đời của Tướng Giáp. Rồi những người đã đọc bản thảo của tôi như Carl Heymann, Allison Kent Thomas, Earl H. (“Butch”) Tilford Jr., bác sĩ Libby Allison-West và thiếu tướng Phillip B. Davidson và cả David G. Marr [một sử gia nổi tiếng về Việt Nam] đã đọc và cho nhận xét về một số phần của cuốn sách. Họ đã giúp tôi chỉnh lý cách viết để có một giọng điệu phù hợp. Những nghi vấn đậm chất chuyên môn của họ đối với những ý kiến của tôi đã buộc tôi phải suy nghĩ lại về nhiều vấn đề, thậm chí toàn bộ một chủ đề nào đó, qua đó giúp tôi tránh mắc phải nhiều sai lầm. Nếu có những điều họ muốn tôi nói đến nhưng lại không có trong cuốn sách, đó không phải vì tôi không đánh giá cao những ý kiến đó hoặc không tôn trọng những điều họ đã nói ra, mà rút cục chỉ chứng tỏ là chúng tôi đã thấy rằng giữa chúng tôi đã có sự bất đồng quan điểm trên vấn đề này hay vấn đề khác.
Tôi cũng cảm ơn Joshua Bilmes của JABberwocky Literary Agency, và Franklin D. Margiotta là người biên tập và Giám đốc của Nhà xuất bản Brassey’s Inc. đã không tiếc công sức và thời gian để cho chất lượng cuốn sách được bảo đảm và ra mắt độc giả đúng thời hạn. Sau tất cả những giúp đỡ tận tình kể trên, nếu cuốn sách còn bất kì thiếu sót gì thì đều chỉ do riêng cá nhân tôi.
Cuối cùng tôi xin được nhắc tới với lòng yêu mến tha thiết và biết ơn vô hạn đối với Laura Gene Currey, người vợ yêu quý của tôi đã khuyến khích, cổ vũ tôi, tạo ra một môi trường thuận lợi, đầy tình mến thương trong mấy năm ròng, để tôi hoàn tất cuốn tiểu sử này. Tôi thường xa lánh mọi người xung quanh để vùi đầu vào công việc nghiên cứu, tìm tòi trong hàng đống tư liệu sổ sách ghi chép và hay phải đi vắng luôn để rà soát, tra cứu, xử lý tài liệu cho kịp thời hạn đã quy định. Laura không tiếc sức để giúp tôi khi có thể. Khi không giúp được gì cho tôi, cô để tôi yên lặng làm việc. Đôi khi cô còn chia sẻ với tôi biết bao nỗi lo toan buồn phiền vì chúng tôi hoàn toàn thông cảm và gắn bó với nhau.
CECIL B. CURREY
Lutz, Florida
Tháng 10 năm 1995
Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt
- Tác giả : Ngô Văn Phú
- Danh mục : Lịch sử