Chiến thắng bằng mọi giá

Chương 3 “Họ đặt hy vọng vào một sự nghiệp chung”

<<Chương 2 “Chúng tôi không biết phải đấu tranh như thế nào?” Chương 4 “Không mềm, không ấm” >>

Chương 3 “Họ đặt hy vọng vào một sự nghiệp chung”

Thời gian dạy học ở trường Thăng Long và học Luật, Võ Nguyên Giáp tiếp tục ở trọ nhà giáo sư Đặng Thai Mai. Ông được học sinh kính trọng và được ca ngợi là dạy giỏi. Một trong những học trò của ông, Tôn Thất Bình bắt đầu có những ý nghĩ tốt về ông. Ông hoàn toàn thích hợp với tâm thức của nhà trường mà ai đó đánh giá là nơi vun đắp tình cảm chống thực dân và nơi diễn ra các cuộc thảo luận về tương lai nước Việt Nam. Học sinh ở độ tuổi từ 14 đến 18, chương trình học của nhà trường tương đương với chương trình của học sinh trung học phổ thông. Võ Nguyên Giáp sử dụng lịch sử để đạt được mục tiêu chính trị của mình. Ông nghĩ rằng dạy môn lịch sử sẽ giúp ông làm cho học sinh thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước.

Sau này, nhiều học trò cũ vẫn nhớ những buổi dạy của thầy giáo Giáp. Ông Nguyễn Đình Tú kể lại: “Thầy Giáp được học sinh thật sự kính trọng. Đó là một người yêu nước vững vàng rất tận tụy, trung thành. Thầy luôn luôn nói cần phải hất cẳng người Pháp. Dĩ nhiên thầy không bao giờ nói về chủ nghĩa cộng sản, mà chỉ nói chủ nghĩa quốc gia. Vì vậy, trong mắt chúng tôi khi đó thầy là một nhà yêu nước, chứ chúng tôi không nghĩ thầy là một người cộng sản”. Võ Nguyên Giáp là một người cộng sản nhiệt thành đã biến những giờ dạy lịch sử thành một diễn đàn chính trị.

Một học sinh khác, sau này cũng đi theo chủ nghĩa cộng sản và di cư vào Nam năm 1954 đã nói ông nổi tiếng trong đám học sinh là diễn giảng rất giỏi về các đề tài lịch sử, đặc biệt là lịch sử quân sự. Nhiều học sinh cũ của ông nhớ về ông như một “chiến binh cuồng tín, không mấy khi mỉm cười và không để ai thuyết phục được ông trong bất cứ lĩnh vực nào”. Ông còn nhớ “thầy Giáp có thể vẽ trên bảng đen những chi tiết cụ thể nhất về từng trận đánh của Napoleon.” Ông Bùi Diễm, cựu đại sứ của Ngô Đình Diệm tại Mỹ, thời đó là một cậu bé 13 tuổi, đã nhớ về Võ Nguyên Giáp như hình ảnh của một con người bị “quỷ thần ám ảnh về cách mạng và các trận chiến.”

Thầy giáo Giáp dạy về lịch sử nước Pháp từ năm 1789 đến giữa thế kỷ 19. Ông trình bày vấn đề theo cách riêng của mình. Bắt đầu buổi học, ông đứng trước lớp nhìn thẳng vào học sinh và nói: “Có rất nhiều sách nói về lịch sử nước Pháp thời kỳ này. Nếu muốn tìm hiểu, các em có thể tham khảo. Tôi sẽ chỉ nói với các em về hai chủ đề: Cách mạng Pháp và Napoleon.”

Nửa thế kỷ đã qua, ông Bùi Diễm không bao giờ quên được phương pháp sư phạm của thầy Giáp: “Sự miêu tả chi tiết về mức độ xa hoa cũng như đồi bại của Marie Antoinette đã đưa học trò đến một nhận định không chút nghi ngờ về số phận dành cho nền quân chủ Pháp. Thầy Giáp sôi nổi kể về Ủy ban Cứu quốc, Công xã Paris, về cuộc sống và cái chết của Danton và Robespierre.” Võ Nguyên Giáp như bị hút hồn về cuộc Cách mạng Pháp và những nhân vật thời đó. Ông Bùi Diễm nhớ lại: “Võ Nguyên Giáp không phải chỉ là nhà sử học đơn thuần, ông còn là một trạng sư say mê, bênh vực chính nghĩa của lịch sử.”

Đi đi lại lại một cách mạnh mẽ trong lớp, Giáp “mô tả lại từng hành động cho thấy rõ sự phát triển trong chiến thuật và chiến lược của Napoleon”. Từng trận đánh lớn khi Napoleon dẫn quân lính xông thẳng vào đội hình của quân đội các nước châu Âu hay từng cuộc giao tranh của các đơn vị nhỏ, Võ Nguyên Giáp đều nhớ chi tiết. Ông muốn học trò của ông hiểu “tại sao một đội long kỵ binh (kỵ binh cận vệ của nhà vua) lại được bố trí ở vị trí chính xác như thế hay đội cận vệ của Napoleon đã nổ súng đúng lúc như thế nào để giành chiến thắng”. Lớp học im phăng phắc, đám học trò thiếu niên đang ở tuổi hiếu động bị cuốn hút vào những câu chuyện kể hết sức hấp dẫn như sống lại đến từng chi tiết võ công hiển hách của Napoleon.

Võ Nguyên Giáp nói rằng ông giảng giải kỹ về các trận đánh của Napoleon đơn giản vì ông có trách nhiệm phải giảng về Cách mạng Pháp. Vì vậy, ông phải nghiên cứu kỹ chiến lược và chiến thuật của Napoleon.

Có một thời gian ngắn, đám học trò hay gọi ông với biệt danh “ông tướng” hay “Napoleon” vì ông say sưa giảng về chủ đề quân sự trong Cách mạng Pháp (56 năm sau, được hỏi về các biệt danh đó, vị “tướng về hưu” đã lâu chỉ phá lên cười với sự vui vẻ).

Theo lời đồn đại, “dáng đi và cách nói của Giáp giống hệt Napoleon, nói những câu ngắn gọn, đầu hơi cúi, tay thọc vào túi áo vét.” Theo miêu tả của các bạn đồng nghiệp, ông là “một con người có vẻ mặt điềm tĩnh, lạnh lùng như một người chơi poker đang suy nghĩ nên hạ con bài nào, nhưng lại hay giận dữ giữa những phút im lặng như hòn đá.” Người ta kể lại, một hôm một giáo sư hỏi ông: “Không chơi kiểu Napoleon à?” Giáp trả lời: “Mình sẽ là một Napoleon!” Có thể ông đã nghĩ đến điều đó, vì khá lâu sau, trong những cuộc trả lời phỏng vấn, ông hay có điệu bộ như hoàng đế Napoleon đang độc thoại trước các nhà báo.

Giáp quan tâm đến học sinh không phải chỉ trong các giờ lên lớp mà cả trong các buổi gặp gỡ bên ngoài. Thỉnh thoảng đám học sinh đến nhà ông trò chuyện sau những buổi lên lớp và ông luôn cố gắng tác động vào quan điểm chính trị của họ. Ông Bùi Diễm nhớ lại Giáp có bộ Tư bản luận bằng tiếng Pháp trên giá sách. Giáp giục ông (Diễm) nên đọc Marx và các tác phẩm có xu hướng xã hội khác “nhưng tôi không mảy may quan tâm và còn nghi ngờ mô hình Mác-xit mà Giáp đưa ra.”

Giáp muốn học trò của mình phải học thật giỏi. Bản thân ông đã chăm chỉ miệt mài học tập trong những năm ở Trường Quốc học Huế, nên ông muốn họ theo gương ông cũng hăng say học tập như thế. Khi học ở Đại học Luật cũng thế. Ông đòi hỏi mình phải học giỏi. Vì vậy, ông để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong các giáo sư dạy ông. Ông ưa thích luật và kinh tế chính trị. Đó là những môn học ông quan tâm từ khi còn làm báo Tiếng Dân.

Năm 1947, giáo sư của Giáp ở trường Đại học Luật Hà Nội là Marcel Ner, một đảng viên cộng sản khi nói về Giáp đã nhớ lại “đó là một con người yêu mến tha thiết đất nước mình, say mê chủ nghĩa cộng sản.” Một giáo sư khác thì đánh giá: “Giáp là sinh viên xuất sắc nhất ở trường Đại học Hà Nội lúc bấy giờ […], một con người khao khát học hỏi” nhưng “lại là người hướng nội”.

Một giáo sư người Pháp khác của Võ Nguyên Giáp là Gregoire Kherian. Năm 1945, khi Nhật đảo chính Pháp, bọn cầm đầu hiến binh Nhật ra lệnh bắt giữ các giáo sư, nhân viên người Pháp của trường Đại học Hà Nội. G. Kherian lúc này là Trưởng bộ môn Kinh tế Chính trị của khoa Luật được người Nhật cho về trường thu dọn các giấy tờ sổ sách. Ông tìm thấy được hồ sơ của một sinh viên duy nhất - đó là Giáp mà ông muốn che chở. Kherian nói: “Đó là anh sinh viên tôi thích nhất, anh ta học rất giỏi và can đảm”. Khi một nhà báo phỏng vấn năm 1972, Kherian nói: “Tôi còn giữ được hồ sơ của Giáp và một bài báo của Giáp với nhan đề Cán cân thanh toán ở Đông Dương.” Kherian ghi nhận đó là “một bài xuất sắc viết về một đề tài khó. Bài viết trình bày sáng sủa, xuất sắc, có phương pháp và độc đáo”.

Tuy nhiên, kỷ niệm kỳ lạ mà Kherian còn giữ được về Giáp là cuối thời gian học đại học, Giáp có cơ hội được rời khỏi Việt Nam để sang Pháp du học. Ông ghi lại: “Giáp đỗ đầu môn Kinh tế Chính trị năm 1938. Hàng năm có một giáo sư nổi tiếng từ Paris sang Việt Nam tự mình chọn lựa sinh viên giỏi, có triển vọng để cho đi học tại Pháp qua một kỳ thi tuyển. Năm đó, là Giáo sư M. Gaeton Pirou. Ông chính là chánh văn phòng của Thủ tướng Paul Doumer. Ông nói với tôi là ông có ấn tượng về kết quả học tập của Giáp và đặt cho tôi nhiều câu hỏi về Giáp. Tôi trả lời anh ta (Giáp) đang có vấn đề với nhà cầm quyền, và đó là con người luôn luôn sôi nổi. Ông Pirou nói: “Phải đưa anh ta ra khỏi môi trường thuộc địa. Hãy tìm cách cho anh ta đến Paris. Anh ta có thể học bất cứ ngành nào theo ý muốn. Người ta sẽ chu cấp cho anh ta ăn học.”

Kherian đã chuyển lời đề nghị của Pirou tới Giáp. Anh yêu cầu có thời gian để suy nghĩ. “Ngày hôm sau Giáp trở lại nói anh ta không thể bỏ rơi bạn bè và hành xử như một người ích kỷ”. Học bổng dành cho người khác là Vũ Văn Hiền sau này là một luật gia nổi tiếng. Võ Nguyên Giáp đã từ chối khoản học bổng đặc cách này dành cho ông cơ hội đi Pháp học ngành nào tùy ý. Sự nhiệt tình của ông đối với đất nước khiến ông khước từ mọi nỗ lực của người Pháp muốn tuyển lựa những thanh niên học tập xuất sắc để đem về Pháp “giáo dục lại” mà người ta hy vọng có thể tác động để họ đi theo con đường không có hại cho đế quốc.

Nhờ sự giúp đỡ của giáo sư G. Kherian, Giáp đã đỗ cử nhân Luật khoa năm 1937 mặc dù điểm môn Luật hơi kém nhưng bù lại môn Kinh tế Chính trị được điểm xuất sắc. Được hỏi về cảm tưởng của ông lúc đó, Giáp trả lời: “Rất hài lòng”. Trong các môn tự chọn, ông tránh không học Luật thuần túy để sau này chỉ trở thành luật gia. Hơn 50 năm sau được hỏi về tại sao ông không trở thành một luật sư, ông trả lời thẳng thắn: “Tôi không bao giờ mong muốn trở thành một luật sư”.

Trong năm 1938, Võ Nguyên Giáp tiếp tục theo học ở trường Đại học Luật Hà Nội, tập trung vào luận án kinh tế chính trị, hy vọng một ngày kia có được học vị tiến sĩ. Là người khao khát đọc sách, ông tận dụng mọi cơ hội thuận lợi để đọc sách tại thư viện, bổ sung vốn kiến thức về lịch sử và chủ nghĩa cộng sản. Ông tham gia ngày càng nhiều vào lĩnh vực hoạt động mới và các kỳ thi đã làm ông đuối sức. Cuối cùng, không thể đồng thời vừa đi học vừa tham gia nhiều hoạt động khác làm ông bận bịu và có những mối quan tâm cấp bách hơn, ông đã bỏ học và không bao giờ đỗ được bằng tiến sĩ Luật hay Kinh tế Chính trị như nhiều tác giả phương Tây khác đã viết.

Phải tìm lý do bỏ học này từ hai năm trước đó. Hàng ngày phải đi từ nhà đến Trường Thăng Long dạy học qua phố Tràng Tiền, Võ Nguyên Giáp thường dừng lại ở ngã tư để đọc các bảng tin dán trên tường. Một buổi chiều tháng 5/1936, trên đường trở về nhà, ông đọc được trên bảng tin một mẩu tin về sự kiện quan trọng vừa xảy ra ở Pháp. Mặt trận Bình dân tập hợp nhiều đảng chính trị trong đó có cộng sản và xã hội vừa thắng cử. Giáp thấy như bị kích động. Chính phủ của Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở Pháp nhất định sẽ nới lỏng sự o ép ở thuộc địa. Phải nhanh chóng nắm lấy thời cơ: đã đến lúc phải ra một tờ báo để bày tỏ quan điểm chống thực dân.

Võ Nguyên Giáp đem ý kiến đó ra bàn với nhóm bạn bè đều dạy học ở Trường Thăng Long và thuyết phục họ giúp mình thực hiện ý định. Giáp biết có một tờ báo hàng tuần sắp vỡ nợ mà ông chủ báo muốn bán lại. Mọi người chung nhau các khoản tiền tiết kiệm của mình cùng với các thầy giáo Trường Thăng Long mua lại tờ báo Hồn trẻ. Tờ báo đã có giấy phép của nhà đương cục nên Giáp và các đồng sự không phải mất nhiều thì giờ vượt qua những thủ tục hành chính rườm rà để ra một tờ báo mới.

Ngày 4/6/1936, Léon Blum, người của Đảng Xã hội Pháp lên làm Thủ tướng. Hai ngày sau, được sự giúp đỡ của bạn bè, tờ Hồn trẻ với ban biên tập mới ra mắt bạn đọc với cái tên Hồn trẻ Tập mới. Đó là tờ báo tiếng Việt đầu tiên kêu gọi dân chủ, ân xá chính trị phạm và biểu thị sự ủng hộ với chính phủ mới của Mặt trận Bình dân Pháp. Đó là một thắng lợi rất lớn. Giáp và các bạn không đủ tiền để in báo với số lượng lớn đủ thỏa mãn yêu cầu của bạn đọc. Tuy nhiên, ra đến số 5, tờ báo bị chính quyền thuộc địa ra lệnh đình bản.

Không nản chí, Giáp quyết định không nhượng bộ trước đòi hỏi của nhà cầm quyền. Người ta nói với ông không được ra báo tiếng Việt nhưng không ai ngăn cản ông ra báo tiếng Pháp. Báo Hồn trẻ Tập mới phải đóng cửa, nhưng ngày 16/9/1936, báo Le Travail (Lao động) bằng tiếng Pháp ra mắt độc giả, do Võ Nguyên Giáp làm chủ bút. Hai tuần sau, một người bạn của Giáp đến tòa soạn. Đó là Đặng Xuân Khu, lấy bí danh là Trường Chinh, người rất có ấn tượng về hoạt động của Mao ở Trung Quốc. Ông vừa mới ra khỏi nhà tù Sơn La nơi ông bị giam giữ từ năm 1930 vì hoạt động chống thực dân Pháp. Ông về Hà Nội làm báo, lấy bút danh là Qua Ninh. Giáp tiếp nhận ngay vào tòa soạn Le Travail. Con người này sẽ trở thành một trong số những nhân vật có trọng trách trong Đảng và là ủy viên Bộ Chính trị dưới cái tên Trường Chinh.

Đầu năm 1937, thành phần ban biên tập tờ Le Travail được mở rộng khi có thêm Phạm Văn Đồng sau này sẽ là Thủ tướng trong suốt 30 năm. Đồng cũng như Giáp đã học Trường Quốc học Huế. Năm 1931 Phạm Văn Đồng bị Pháp bắt và đưa đi đày ở Côn Đảo đến năm 1937. Từ đó, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp làm việc cùng nhau tại tòa soạn báo Le Travail.

Võ Nguyên Giáp rất tò mò về những câu chuyện mà Trường Chinh và Phạm Văn Đồng kể. Họ là những người cộng sản có quá trình thâm niên hoạt động cách mạng, và những câu chuyện của họ về lòng tận tụy hy sinh, về kỷ luật và trật tự, về mục tiêu và phương pháp của Đảng đã cuốn hút Giáp. Giáp càng nghe họ nói càng thấy đảng Tân Việt không thỏa mãn được mong muốn của mình. Ngay cả cánh cộng sản trong đảng Tân Việt có thời gian ông đã giúp sức tổ chức cũng thấy không còn mấy hấp dẫn đối với ông.

Võ Nguyên Giáp muốn hoạt động một cách tích cực chống lại người Pháp, và Trường Chinh, Phạm Văn Đồng sẽ đem lại cơ hội cho ông nếu ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Thành lập tháng 2/1930 dưới cái tên Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng đã đổi tên theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản ở Matxcova bởi lẽ những người cộng sản Xô Viết nghĩ rằng người cách mạng Việt Nam không đủ mạnh để lật đổ chế độ thuộc địa Pháp. Họ cần phải liên minh với những người cộng sản Lào và Campuchia để lập ra một đảng cộng sản đại diện cho toàn bán đảo Đông Dương. Bị đàn áp khốc liệt, gần như bị hủy diệt sau phong trào Xô Viết năm 1930 - 1931, những người cộng sản Việt Nam còn sống sót trong thời kỳ Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở Pháp từ 1936 đến 1939 đã cơ cấu lại tổ chức đảng và lấy lại vị trí hàng đầu trong công cuộc chống lại ách thuộc địa ở Việt Nam. Năm 1937, sự lựa chọn mới đến với Giáp, ông hăng hái gia nhập hàng ngũ đảng cộng sản.

Quá khứ đã giúp Võ Nguyên Giáp có niềm hi vọng về tương lai. Nhờ đọc cuốn sách của Pierre Gourou về người nông dân xứ Bắc Kỳ, Võ Nguyên Giáp đã nghiên cứu và hiểu được điều kiện cũng như cách hành xử của nông dân Việt Nam. Ban đầu là sinh viên, sau là thầy giáo dạy sử, ông hiểu thấu đáo lịch sử và nhân dân nước ông. Suy nghĩ về cuộc nổi dậy của Tây Sơn năm 1771 và mới đây là cuộc nổi dậy không thành của Việt Nam Quốc dân Đảng ở Yên Bái, ông hiểu rõ cuộc nổi dậy chỉ có thể thành công khi kết hợp được việc ủng hộ chính trị của quần chúng với chiến thuật bất ngờ, linh hoạt, cùng lực lượng quân sự chiến lược.

Khi quan điểm chính trị đã được xác định rõ ràng, Võ Nguyên Giáp làm việc ở tòa soạn báo Le Travail một cách thận trọng và nghiêm túc, ngày càng có hiệu quả hơn. Một lần ông rong ruổi đạp xe đi từ Hà Nội đến Cẩm Phả phía bắc Hải Phòng để lấy tài liệu viết phóng sự về cuộc đình công của thợ mỏ. Cùng với Trường Chinh (Đảng Cộng sản đã phái Phạm Văn Đồng lấy bí danh Lâm Bá Kiệt đi Hoa Nam), Võ Nguyên Giáp lập thêm nhiều tờ báo khác ra bằng tiếng Việt hoặc tiếng Pháp. Nhờ ảnh hưởng của Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở Pháp lan rộng sang tận Đông Dương, nên nhà cầm quyền thuộc địa buộc phải nới lỏng chính sách kìm kẹp, các hoạt động chính trị được phép hoạt động công khai tuy còn hạn chế, trong đó có việc xuất bản nhiều tờ báo có xu hướng quốc gia.

Võ Nguyên Giáp dành nhiều thời gian hơn cho việc viết báo. Ai mà biết còn được tự do ra báo, ra sách đến bao giờ? Ít nhất đã có 11 tờ báo hàng tuần được Võ Nguyên Giáp và Trường Chinh cho ra mắt để rồi đình bản khi nhà cầm quyền cảm thấy bị khiêu khích. Võ Nguyên Giáp còn viết bài cho ba tờ báo khác và ít nhất tham gia vào ban biên tập của hai tờ nữa. Vào thời “tự do” của năm 1937, Võ Nguyên Giáp được cử làm đại biểu tại Đại hội Báo chí Trung Kỳ và Chủ tịch Đại hội Báo chí Bắc Kỳ lần thứ nhất. Không có gì đáng ngạc nhiên khi ông cảm thấy bị chìm ngập trong hàng đống công việc.

Trong 7 tháng tồn tại, báo Le Travail của Võ Nguyên Giáp ra được 30 số. Đến thời điểm đó, ông đã hiểu rõ mọi mặt của nghề báo. Ông viết xã luận và viết bài về các sự kiện quan trọng đang diễn ra rồi ông lại đăng lại các mẩu tin ngắn để viết bình luận, tiến hành điều tra và viết phóng sự về các đề tài khác nhau có liên quan đến chủ nghĩa thực dân, đi từ in đá đến in máy quay, rót mực vào rulô rồi quay cho máy chạy, nhiều lần ông tự tay dập các bản mẫu các trang báo.

Cáng đáng tất cả các công việc quả là quá sức một con người. Khi ban lãnh đạo Đảng giao công việc khác cho Trường Chinh và Phạm Văn Đồng, họ phải đi xa Hà Nội một thời gian thì chỉ còn một mình Võ Nguyên Giáp đảm nhận mọi công việc ở tòa báo. Ông làm việc từ 6 giờ tối đến 6 giờ sáng, viết và sắp bài cho các báo hàng tuần đôi khi dày tới 48 trang. Ngủ ít, ăn qua loa bữa điểm tâm, rồi ông chạy vội đến Trường Thăng Long cho kịp giờ lên lớp. Tại đây ông truyền bá không biết mệt những ý tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin qua các bài giảng trên lớp, trong các buổi trò chuyện với học sinh, với đồng nghiệp. Đúng là một con người năng động hiếm có! Hàng chuỗi công việc trải nhiều ngày liền như thế khiến ông cạn kiệt sức lực.

Ngày 16/4/1937, nhà cầm quyền ra lệnh đóng cửa tòa soạn báo Le Travail. Năm 1938, Trường Chinh và ông, với nhịp điệu làm việc hợp lý hơn, cùng lao vào một công việc quan trọng khác đó là viết một công trình nghiên cứu gồm 2 tập về nông thôn Việt Nam được xuất bản với nhan đề Vấn đề dân cày 1937 - 1938. Cả hai tác giả đều ký bút danh, Võ Nguyên Giáp lấy bút danh Vân Đình và Trường Chinh lấy bút danh Qua Ninh. Cả hai người đều cho rằng cuộc cách mạng cộng sản phải dựa trên nền tảng giai cấp nông dân đồng thời là giai cấp vô sản. Tác giả William Burchett, một người luôn bênh vực mọi luận thuyết cộng sản, miêu tả cuốn Vấn đề dân cày 1937 - 1938 là sự “phân tích bậc thầy”, “một công trình nghiên cứu xuất sắc”, trở thành “nền tảng cho chính sách của Đảng Cộng sản, sau đó là của Việt Minh đối với giai cấp nông dân”.

Khoảng năm 1939, Võ Nguyên Giáp đã có vị trí nhất định trong hàng ngũ lãnh đạo của tổ chức cộng sản. Các đảng phái khác đang tan rã, đảng viên tan tác, những người lãnh đạo bị bắt, bị tra tấn hoặc bị xử tử. Nhờ các trung tâm đào tạo ở Liên Xô cũng như ở Trung Quốc, những người cộng sản có thể thay thế người lãnh đạo của họ dễ dàng hơn so với các đảng phái khác không có được sự giúp đỡ từ bên ngoài như vậy.

Ngoài Hồ Chí Minh, còn có tên khác là Nguyễn Ái Quốc hiện đang ở Liên Xô, còn lại chỉ có hai người có thể khẳng định họ chiếm các vị trí then chốt trong bộ máy tổ chức của Đảng. Một là Phạm Văn Đồng, là người nhiều hơn Võ Nguyên Giáp 6 tuổi. Người kia là Trường Chinh có nhiều năm thử thách trong nhà tù. Nếu không rơi vào tay nhà đương cục Pháp một lần nữa, Võ Nguyên Giáp hẳn có tương lai rất nổi bật.

Việc Võ Nguyên Giáp nhanh chóng khẳng định được vị trí của mình là nhờ vào những nỗ lực vượt bậc của ông, bên cạnh đó là một chút may mắn. Ông đang ở tuổi cường tráng và đã qua con đường học vấn trong những năm tạm lắng, không bị trở ngại vì những cuộc nổi dậy, vì sự chiếm đóng của Nhật hay vì sự đàn áp của Pháp. Ông vừa tham gia công tác cho Đảng lại vừa đi học. Ông kiếm sống bằng những bài viết của mình cho Đảng, qua đó được các cấp bộ đảng đánh giá cao.

Những đảng viên khác không được sáng suốt như thế trong việc phân tích những yêu cầu của Việt Nam. Trong cương lĩnh chính trị của họ không có điểm nào nói về vai trò của giai cấp nông dân trong khi những người cộng sản đã biết bài học từ cuộc nổi dậy của nông dân Nghệ Tĩnh từ những năm 1930. Những người cộng sản biết dựa vào các tổ chức quần chúng trong cả nước, biết được thời điểm nào là thuận lợi để có thể giành được sự ủng hộ của quần chúng cần thiết cho sự nghiệp của họ. Vì vậy, trong lúc Võ Nguyên Giáp và Đảng Cộng sản làm việc để chuẩn bị cho tương lai, ông không ngừng tranh thủ sự tín nhiệm của tổ chức.

Suốt một thời gian dài, ông chểnh mảng với cuộc sống riêng của mình. Tranh thủ lúc bớt bận rộn, ông đã nghĩ đến chuyện xây dựng hạnh phúc riêng. Đó là vào năm 1939 ở tuổi 28, Võ Nguyên Giáp trở lại Vinh và xin cưới Quang Thái làm vợ. Trên nhiều phương diện, họ tìm hiểu và yêu nhau vì có chung một lý tưởng. Theo Võ Nguyên Giáp kể lại, “cả hai cùng chung một niềm tin, cùng đặt hy vọng vào một sự nghiệp chung”. Giáo sư Đặng Thai Mai, ân nhân của Võ Nguyên Giáp tán thành việc hôn nhân này. Tháng 3/1939 hai người làm lễ thành hôn. Cô dâu Quang Thái, người nhỏ nhắn, trong ngày cưới mặc chiếc áo dài màu đỏ thêu, chiếc quần dài trắng, đầu vấn khăn vành dây truyền thống gắn vòng kim tuyến vàng óng.

Ở thời đó cũng như bất cứ thời nào về sau, Võ Nguyên Giáp không nói ra ngoài với ai cuộc sống của ông với Quang Thái ra sao. Cũng giống như mọi người khác, thường dè dặt ít kể về việc riêng tư của mình. Tuy nhiên, các bạn thân của ông trong những năm sau đó thường nhận xét rằng thời kỳ tiếp theo cuộc hôn nhân đó là thời kỳ hạnh phúc nhất trong đời ông. Không kể những ngày dạy học ở Trường tư thục Thăng Long, ông gắn bó cuộc sống của mình với Đảng cũng như với Quang Thái. Ngôi nhà riêng của đôi vợ chồng trẻ ở ngay cạnh Trường Thăng Long, thường là nơi gặp gỡ chung của các đồng chí trong Đảng để bàn công việc của Đảng. Giáp và vợ thường đóng vai trò chủ tiệc mỗi khi có cuộc gặp gỡ các đồng chí phụ trách của Đảng.

Các điều kiện hoạt động chính trị cũng không phải lúc nào cũng như thế. Khi Leon Blum làm Thủ tướng cùng với Mặt trận Bình dân nắm quyền ở Pháp, những người yêu nước có xu hướng quốc gia đủ các màu sắc đều có nhiều thuận lợi để hoạt động. Jules Brevié được Leon Blum cử làm Toàn quyền ở Đông Dương (1937 - 1939) đã thả chính trị phạm, tự do hóa luật báo chí và cho các đảng quốc gia được hoạt động hợp pháp hoặc ít nhất cũng là bán hợp pháp. Đầu năm 1939 nhiều người chống lại chính quyền thuộc địa khấp khởi hy vọng tương lai sẽ còn đem lại cho họ nhiều cơ hội khác để thúc đẩy sự nghiệp của họ tiến lên. Nhưng họ sẽ thất vọng.

Mùa hè năm 1939, chính phủ Blum đổ, Daladier lên thay và tại Đông Dương Georges Catroux, một sĩ quan nhà nghề thay Brevié từ tháng 8/1939. Ngày 1/9, Đức chiếm Ba Lan và những ngày hòa bình ở châu Âu nhường chỗ cho cuộc chiến tranh kéo dài sáu năm và lan rộng khắp thế giới. 25 ngày sau, ngày 26/9 chính phủ Pháp cấm Đảng Cộng sản hoạt động ở Pháp cũng như ở hải ngoại và phát lệnh bắt giữ hầu hết những người lãnh đạo quan trọng nhất của đảng. Tại Việt Nam trên một nghìn đảng viên cộng sản không kịp rút vào bí mật, bị bắt trở lại nhà tù.

Võ Nguyên Giáp, Quang Thái, Phạm Văn Đồng lo ngại tự hỏi rằng chính họ có thoát được cuộc vây ráp của cảnh sát không? Họ cố không làm gì để mật thám để ý. Võ Nguyên Giáp kể lại: “Mỗi một động thái của tôi đều bị mật thám giám sát chặt chẽ như hồi trước đây khi chúng tôi còn hoạt động báo chí công khai cho Đảng ở Hà Nội”. Có thể cặp vợ chồng mới cưới này phải tạm lánh xa Hà Nội hoặc quay về Trung Kỳ để tránh mọi sự dò xét của cảnh sát.

Lực lượng Đức thay đổi nhanh chóng bộ mặt châu Âu. Cuộc xâm lăng Ba Lan mau chóng trở thành thắng lợi của bọn quốc xã. Chỉ trong vòng ba tháng, chính phủ Warsaw sụp đổ. Rồi mấy tháng sau cuộc chiến tranh chớp nhoáng trở thành cuộc chiến tranh kỳ cục, một cuộc chiến tranh bao vây chống lại các nước dân chủ phương Tây trong khi các hoạt động quân sự thu hẹp thành các cuộc giao chiến bằng tàu ngầm, các cuộc bắn phá bằng máy bay tiến công các căn cứ hải quân hay các trận giao chiến ngẫu nhiên giữa các hạm đội hai bên. Mùa xuân năm 1940, một lần nữa Đức lại tiến công. Lần này là Na Uy, Đan Mạch, Bỉ, Hà Lan và Pháp bị đè bẹp. Pháp đề nghị ngừng bắn. Đức nhận ngừng chiến với điều kiện để lại một phần nước Pháp không bị chiếm đóng. Thống chế Pétain, người anh hùng dân tộc của Pháp thời Chiến tranh Thế giới thứ nhất, thành lập ở Vichy một chính phủ trung thành với Berlin.

Đồng minh của Đức ở Thái Bình Dương không án binh bất động. Tháng 11/1939 đế quốc Nhật tấn công Trung Hoa đang chao đảo mà Tưởng Giới Thạch thấy chỉ còn hai con đường tiếp nhận viện trợ từ bên ngoài: một là đường Burma(1), hai là đường sắt Hà Nội - Côn Minh. Sau khi Paris thất thủ, nước Pháp sụp đổ và Chính phủ Vichy thành lập, Toàn quyền Catroux cố giữ vẻ ngoài Đông Dương vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Pháp.

Trước sức ép của Nhật đòi những đặc quyền về quân sự cho quân đội của chúng ở Đông Dương, Catroux cố thuyết phục Hoa Kỳ gửi quân sang Đông Dương can thiệp. Franklin D. Roosevelt từ chối. Một lần nữa Nhật lại lấn tới. Cuối tháng 9 chúng đòi quyền cho quân đội đi qua Bắc Kỳ để đánh Trung Quốc từ phía nam. Cuối cùng Catroux phải nhượng bộ trước yêu sách của Nhật vì lúc đó ông ta không còn sự lựa chọn nào khác. Ông ta ít nhiều bị Chính phủ Vichy chỉ trích mặc dù chính phủ này đã đầu hàng Đức Quốc xã. Catroux bị triệu hồi về Pháp. Ông rời khỏi Đông Dương tháng 7/1940 nhưng không về Vichy chịu tội mà chạy theo phái De Gaulle đang kêu gọi chống Đức, rồi Jean Decoux, tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương của Pháp, thay thế Catroux làm Toàn quyền Đông Dương từ năm 1940 đến 1945.

Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Vichy ra lệnh cho Decoux cho phép Nhật lập ba căn cứ không quân ở Việt Nam với 6.000 quân đồn trú. Cùng ngày, mặc dù thỏa thuận đã ký, nhưng Nhật vẫn tấn công hai đồn binh của Pháp ở Đồng Đăng và Lạng Sơn. Hai ngày sau, Lạng Sơn đầu hàng và hôm sau toàn cuộc kháng cự của Pháp nhanh chóng tan vỡ. Không phải 6.000 quân như hiệp định đã ký mà là 35.000 quân Nhật được gửi sang Đông Dương nhưng vẫn duy trì sự kiểm soát “ảo” của Pháp với các viên chức thực dân và bộ máy cai trị thuộc địa, song tất cả đều đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của quân Nhật. Như vậy, trong suốt cuộc chiến tranh, các nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương đã hợp tác với người Nhật. Pháp cung cấp cho Nhật một số lượng lớn gạo, than, cao su và nhiều nguyên liệu khác.

Decoux cố gắng nuôi dưỡng ảo tưởng rằng nước Pháp nắm quyền cai trị Đông Dương, nhưng những người dưới quyền đều sớm nhận ra có một nước châu Á đã làm mất mặt nước Pháp. Chính điều này hoàn toàn thủ tiêu câu chuyện hoang đường về tính không thể thất bại của người da trắng, huyền thoại ấy đã đứng vững gần một thế kỷ ở Việt Nam. Tại miền Nam Việt Nam càng ngày càng có nhiều người có tình cảm thân Nhật, trong khi tại miền Bắc nhiều người bị cuốn hút vào hoạt động của những người yêu nước theo xu hướng quốc gia hoặc cộng sản. Nhưng thời gian qua đi, ngay ở miền Nam, phần lớn người dân cũng từ chối đứng về phía Nhật Bản.

Võ Nguyên Giáp và Quang Thái tỏ ra kín đáo, thận trọng, cố gắng sống bình thường như mọi người. Tháng 5/1939, bốn tháng trước khi chiến tranh nổ ra trên cánh đồng Ba Lan, Quang Thái có thai. Càng gần đến ngày sinh, vào mùa xuân năm 1939 hai vợ chồng thường nói với nhau về đứa con sắp sinh và về tương lai của nó sau này. Ngày 4/1/1940, Quang Thái sinh hạ một bé gái và họ đặt cho con cái tên xinh đẹp là Hồng Anh. Như mọi cặp vợ chồng trẻ khác, cả hai đều rất hài lòng và hạnh phúc.

Những ngày thanh bình đó chỉ kéo dài vài tháng. Tháng 9/1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất phản đế và đặt ưu tiên vào việc giải phóng Việt Nam khỏi ách thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc sau này trở thành Hồ Chí Minh hiện đang ở Trung Quốc và đã bắt đầu liên lạc với Ban chấp hành Trung ương Đảng. Mặc dù Quốc Dân đảng Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch kiểm soát về danh nghĩa nước Trung Hoa, nhưng đất nước rộng lớn này đang ở trong tình trạng gần như vô chính phủ – một vùng đất thu hút những người cách mạng và bọn phản động đủ loại. Cũng vì vậy Nguyễn Ái Quốc ở đây còn cảm thấy tương đối an toàn. Theo lời khuyên của Nguyễn Ái Quốc, tháng 4/1940, Ban Chấp hành Trung ương quyết định cử Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc. Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ Hoàng Văn Thụ gặp riêng Võ Nguyên Giáp để ra lệnh lên đường. Họ tính đến khả năng sẽ phát động một phong trào du kích bên trong Việt Nam.

Võ Nguyên Giáp cho Quang Thái biết dự định của mình. Cô rất phấn khởi đòi được đi với chồng sang Trung Quốc. Võ Nguyên Giáp phản đối, cho rằng như vậy càng gây thêm khó khăn, chuyến đi phải giữ hoàn toàn bí mật. Nếu chỉ có hai người, chuyến đi có thể không gặp nguy hiểm nhưng nay nếu đi cả bốn người thì tình hình sẽ khác. Có thể gây nguy hiểm cho bé Hồng Anh và điều gì sẽ xảy ra nếu khi đi đường bé bị ốm. Đảng đã quyết định cho họ. Quang Thái và chị là Minh Khai sẽ ở lại Việt Nam tiếp tục giữ liên lạc. Chỉ có Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp lên đường. Tình hình càng phức tạp vì lúc đó Phạm Văn Đồng đang ốm và Võ Nguyên Giáp biết rằng sẽ khó mà đi tự do, theo con đường công khai mà không bị mật thám phát hiện. Họ chuẩn bị hành trang rất kỹ và hoàn toàn bí mật. Họ cũng hy vọng Quang Thái sẽ nhanh chóng tìm được một nơi chắc chắn để nhờ trông giữ cháu Hồng Anh để Thái có thể toàn tâm, dốc sức vào hoạt động bí mật.

Võ Nguyên Giáp và Quang Thái chia tay nhau trên bờ hồ Tây vào một buổi chiều thứ Sáu, ngày 3/5/1940. Nếu đợi dạy đến hết tuần ở Trường Thăng Long thì Võ Nguyên Giáp sẽ có cả ngày thứ Bảy và Chủ nhật để đi lên biên giới phía bắc. Đợi đến sáng thứ Hai khi Giáp vắng mặt ở trường, người ta mới bắt đầu đặt vấn đề và ngay cả lúc đó, cũng phải mất vài tiếng nữa cảnh sát mới biết tin và ra lệnh báo động thì lúc đó Giáp đã đi xa rồi.

Võ Nguyên Giáp rời khỏi trường học như thể đi chơi cuối tuần như thường lệ. Ông kể lại: “Quang Thái, bé Hồng Anh đợi tôi ở đường Cổ Ngư, ngày nay là đường Thanh Niên”. Bế con trên tay hai người sóng đôi theo hồ như mọi người đi dạo mát. Võ Nguyên Giáp đeo kính đen để học trò không nhận ra. Hai người thong thả bước bên nhau, cố giữ thái độ ung dung bình thường như một cặp tình nhân. Điều này đối với Võ Nguyên Giáp không khó nhưng với Quang Thái hẳn là không dễ.

“Em hãy ráng tìm người tin cậy gửi con, để có thể rút vào bí mật”. Võ Nguyên Giáp tâm sự với vợ, đặt lên hàng đầu yêu cầu của Đảng. Quang Thái trong tâm trạng bị giằng xé giữa cơn xúc động làm mẹ và sự trung thành với Đảng, cô không cầm được nước mắt, bật tiếng khóc. Một mặt xa chồng mà cô đã tỏ ý muốn đi theo để cùng hoạt động chống Pháp, mặt khác phải ở lại tìm nơi gửi con. Vừa là mẹ lại vừa là người cách mạng, đó là một trách nhiệm quá nặng nề đối với một phụ nữ trẻ tuổi. Họ thong thả quay trở lại đi theo đường Cổ Ngư rồi chia tay nhau xa dần, mỗi người một con đường. Võ Nguyên Giáp bước sang một khúc quanh lớn trong cuộc đời đầy gian lao nguy hiểm. Còn Quang Thái gạt nước mắt quay về nhà với ý định đi tìm nơi ẩn náu chắc chắn cho bé Hồng Anh. Họ sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa.

Võ Nguyên Giáp và Quang Thái đã hi sinh hạnh phúc riêng của mình vì lòng yêu nước và lý tưởng chung. Sau khi Võ Nguyên Giáp đi xa và gửi được con, Quang Thái cùng với Minh Khai vội vã đi khỏi Hà Nội trở về làng ở Vinh. Bị cảnh sát truy lùng, Minh Khai bị bắt tháng 7/1940. Trong tù cô bị tra tấn một cách dã man để ép khai ra những tin tức về Đảng Cộng sản và hoạt động của Đảng. Tuy vô cùng đau đớn nhưng cô không hề hé ra nửa lời. Bọn cai ngục đã bịt mắt cô và đem bắn tại Hóc Môn gần Sài Gòn, ngày 25/4/1941. Lời nói cuối cùng của cô là “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm! Cách mạng Việt Nam thắng lợi muôn năm!”

Quang Thái trốn thoát được sự truy lùng của cảnh sát cho đến tháng 5/1941 thì cũng bị mật thám Pháp bắt tại Vinh, thành phố quê hương cô, trong lúc cô đang đợi giờ phút chót chia tay bé Hồng Anh. Trước khi bị bắt, cô đã kịp giao con gái mới một tuổi rưỡi cho cô em, để thu xếp gửi bé về cho ông bà nội ở An Xá trông hộ. Trong nhiều năm ông bà đã nuôi dưỡng chăm sóc cháu nội như cha mẹ nuôi con. Người Pháp đưa Quang Thái về giam tại nhà tù Hỏa Lò ở Hà Nội. Nhiều năm sau, chính nơi này được phi công Mỹ bị bắt đặt biệt danh là Khách sạn Hilton Hà Nội. Quang Thái bị đem ra xử ở tòa án binh vì âm mưu chống lại an ninh của nước Pháp và bị kết án khổ sai chung thân. Điều bọn ác ôn đã làm với người chị cũng được đem ra thi hành với người mẹ trẻ dũng cảm này. Bị tra tấn đến tận cùng, không chịu nổi đau đớn lâu hơn nữa, Quang Thái đã tự tử, theo một số người kể lại, bằng cách nuốt một dải lụa mềm đến nghẹt thở.(2) Theo một báo cáo khác của mật vụ Mỹ thì có một kết cục khác. Người Pháp đã buộc hai ngón tay cái treo người cô lên và đánh cho đến chết. Dù giải thích như thế nào thì Quang Thái đã hy sinh năm 1941 chỉ vài tuần sau khi Minh Khai bị xử bắn.

Trong nhiều năm gia đình Võ Nguyên Giáp còn phải chịu nhiều nỗi đau đớn do người Pháp gây ra. Hồng Anh còn nhớ cái chết của ông nội Cửu Nghiêm. Năm 1947, khi Pháp trở lại chiếm đóng tỉnh Quảng Bình, nhiều người dân chạy trốn, Hồng Anh viết: “Ông tôi không chạy đi đâu cả…, ông nói tao già rồi, tao không làm điều gì phi pháp hay có hại cho ai. Ông còn nói ông còn rất nhiều việc phải làm”. Hồng Anh cũng kể lại cô cũng đã phải chạy trốn như thế nào: “Bọn trẻ chúng tôi được người lớn để vào trong thúng rồi gánh đi”. Cô cũng nhớ cái thúng đong đưa theo nhịp chân bước của người gánh.

Cô ghi lại: “Tôi không bao giờ gặp lại ông nội nữa”. Mặc dù Hồng Anh không gặp lại ông nội được nữa nhưng Giáp đã cố gắng để gặp cha mình. Năm 1946, trong một dịp đi họp qua An Xá, Võ Nguyên Giáp rẽ về thăm nhà để đoàn tụ với gia đình.

Tháng 8/1947 ông Cửu Nghiêm bị Pháp bắt trong cuộc hành quân mở rộng sự kiểm soát ra toàn xứ Trung Kỳ sau khi đã tái chiếm Huế. Ông Cửu bị giam ở nhà lao Huế không xa Trường Quốc học. Bọn cai ngục yêu cầu ông công khai tố cáo hoạt động của con trai. Ông cụ từ chối, Hồng Anh kể lại: “Ông bị chúng tra tấn. Một trong những nhục hình là dùng dây thừng buộc vào cái thanh đỡ va chạm sau xe ôtô rồi cho xe kéo lết đi”. Cuối cùng bị kiệt sức vì những đối xử tàn bạo, ông mất tháng 11/1947. Võ Nguyên Giáp không có cách gì để cứu cha. Lúc này Võ Nguyên Giáp đang ở Việt Bắc, như Hồng Anh đã nhận xét, thi thể ông Cửu bị vùi chung trong một cái hố, gia đình không biết chắc ở chỗ nào mà tìm. “Mãi về sau này nhờ các chú rất dũng cảm (những người Võ Nguyên Giáp cử về) gia đình mới tìm thấy hài cốt đem về mai táng trong nghĩa trang liệt sĩ ở quê nhà”. Nếu phải biết vì sao Võ Nguyên Giáp hun đúc chí căm thù chống thực dân đến như thế thì chuyện người cha bị tra tấn đến chết cũng đủ để lý giải.

Mọi cách cư xử của người Pháp đối với Võ Nguyên Giáp và gia đình ông không có gì là khác thường, là ngoại lệ. Cảnh sát và bọn cai ngục Pháp sẵn sàng dùng bất kể phương pháp gì để thuyết phục tù nhân của họ phải nói, kể cả bắt uống no nước rồi giẫm chân lên bụng cho nước bắn ra qua mũi, tai, v.v…, tra điện, nhổ móng tay, móng chân và các hành động man rợ khác. Đối với phụ nữ, họ dùng dòng điện cắm vào chỗ kín mà nhiều người khi ra tù không ai không chịu di chứng, ảnh hưởng đến thiên chức của nữ giới. Bọn cai ngục còn dùng lươn là loài vật có răng nhọn đưa vào họng hay âm đạo họ. Trong các vùng mềm và ẩm đó, con lươn cố vẫy vùng để thoát ra ngoài bằng cách cắn vào thịt nạn nhân. Bọn ác ôn nhìn nạn nhân quằn quại vì những vết cắn và luồng điện giật mạnh. Một lúc sau chúng rút các con lươn ra và bắt đầu cuộc thẩm vấn. Đôi khi có những sự kháng cự rất anh hùng. Một nữ tù nhân hấp hối để giữ vững khí tiết, không khai, đã cắn lưỡi tự vẫn và theo như mọi người kể lại chị đã nhổ cái lưỡi đỏ lòm máu vào bọn thẩm vấn.

Năm 1982, Will Brownell, Giám đốc dự án Thư mục về Việt Nam ở Trường Đại học Colombia đã phỏng vấn tướng Raoul Salan - một trong những tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Ông viết: “Những đòn tra tấn đối với người vợ (của Giáp) đã được khẳng định trong cuộc trò chuyện với Raoul Salan. Ông ta không ưa Tướng Giáp và không khâm phục Tướng Giáp, nhưng ông ta thừa nhận những tội ác chống lại Giáp. Ông ta thừa nhận có áp dụng tra tấn nhưng ông ta cố lẩn tránh bằng cách ghi nhận có áp dụng các tra tấn nhưng do thuộc quyền người Việt tiến hành chứ không phải do người Pháp... Tướng Massu cũng thừa nhận như thế trong cuộc nói chuyện tháng 6/1974”.

Lúc đầu khi người Pháp bắt vợ và chị vợ, Võ Nguyên Giáp không biết các hiểm nguy mà hai người phụ nữ đã phải chịu. Lúc này ông đang lên đường đi Trung Quốc, vừa mới rời bỏ công việc dạy học và từ biệt gia đình theo lệnh của Đảng Cộng sản để đi vào một nhiệm vụ lớn lao trong cuộc đời. Rất lâu sau đó ông mới biết tin về việc Quang Thái và Minh Khai bị bắt rồi hy sinh. Ông cũng không biết cả tình cảnh khó khăn mà cô con gái đầu lòng của ông – Hồng Anh – đã phải trải qua. Cùng với những đau đớn đó là tin thêm về người cha bị tra tấn đến chết trong nhà lao Huế. Theo nhiều người đã từng quen biết Võ Nguyên Giáp từ trước, nếu trở thành con người sắt đá cương nghị những năm sau không phải chỉ vì ông có tinh thần quốc gia dân tộc hoặc nhiệt tâm tin vào chủ nghĩa cộng sản mà còn do ý muốn trả thù cho những người thân của mình. Hồng Anh đã từng nói về người cha của mình với những lời lẽ đầy thương yêu: “Ông mang trong tâm hồn những vết thương mà thời gian không bao giờ có thể xóa nhòa được.”

  • 1. Đường Burma (Burma Road) dài hàng trăm cây số, nối Trung Quốc với tây bắc Myanmar (BT).
  • 2. Năm 1942, Quang Thái bị Pháp bắt và kết án 16 năm tù. Do sức yếu, đồng thời bị nhiễm dịch thương hàn trong nhà tù Hỏa Lò, nên chị đã mất ngày 21 tháng Giêng năm Giáp Thân tức ngày 14/2/1944 (BT).
<<Chương 2 “Chúng tôi không biết phải đấu tranh như thế nào?” Chương 4 “Không mềm, không ấm” >>

Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Cờ lau dựng nước

Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt