Chiến thắng bằng mọi giá
Chương 14 “Mồ hôi và công sức của binh sĩ”
Chương 14 “Mồ hôi và công sức của binh sĩ”
Cuối cùng, đã đến lúc Võ Nguyên Giáp đem sức mạnh của các đơn vị ưu tú – khối chủ lực – của mình để đương đầu với Pháp. Năm 1951, đó là một thất bại đối với ông ở Vĩnh Yên, Mạo Khê và dọc sông Đáy. Ông đã rút ra nhiều bài học quý giá từ đó. Ông dám thẳng thắn nhìn nhận những thiếu sót trong việc đánh giá tình hình như ông viết sau này trong cuốn Chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân: “Tất cả những quan điểm phát sinh từ tư tưởng sốt ruột, nóng vội mà mục tiêu là muốn thắng nhanh đều sai lầm… Cần phải đem hàng nghìn thắng lợi nhỏ gộp lại thành thắng lợi lớn”. Ông đã có sau lưng ông nhiều thắng lợi như thế. Cuộc đấu tranh lâu dài chống Pháp cho phép ông thành lập những đơn vị ưu tú, chủ lực của quân đội. Hiện nay trước mắt ông là một vị tướng Pháp mới, mong muốn được gặp ông trên chiến trường. Và Võ Nguyên Giáp đã sẵn sàng. Nếu Navarre muốn giao chiến với ông ở Điện Biên Phủ thì ông không mong muốn gì hơn.
Tuy nhiên, không phải không có những mối ngờ vực. Janos Radvanyi, một nhà ngoại giao Hungari, đến thăm Hà Nội đã kể lại cuộc trò chuyện với Võ Nguyên Giáp vào tháng 4/1959. Võ Nguyên Giáp nói: “Trận Điện Biên Phủ là sự nỗ lực vượt bậc của quân đội Việt Nam. Lực lượng của chúng tôi đang ở trên bờ kiệt sức. Tiếp tế gạo cho bộ đội đang cạn. Thậm chí chúng tôi còn rất khó tuyển mộ quân lính mới. Nhiều năm chiến tranh ở rừng núi đã hủy hoại tinh thần của các đơn vị đang chiến đấu ngoài mặt trận”. Ngoài ra, ông còn chịu sức ép về thời gian. Tháng 2/1954, các Bộ trưởng Ngoại giao của nhiều nước gặp nhau ở Berlin đã quyết định về nguyên tắc triệu tập hội nghị tại Geneve vào tháng 5 để giải quyết các vấn đề cấp bách ở Viễn Đông, trong đó có vấn đề Đông Dương. Điều đó bao hàm vấn đề thương lượng và Hồ Chí Minh đã sẵn sàng. “Cơ sở của đình chiến”, ông nói khi trả lời một nhà báo Thụy Điển, “là chính phủ Pháp tôn trọng thật sự độc lập của Việt Nam”. Nếu người tổng tư lệnh quân đội giành được thắng lợi có ý nghĩa – một lá bài chủ chốt để thương lượng – thì thắng lợi đó phải xảy ra trong thời gian ngắn nhất.
Võ Nguyên Giáp tự hào về chất lượng quân đội và tin rằng đội quân của ông có thể chịu được một cuộc giao chiến trận địa với người Pháp. Không còn là năm 1946 hay năm 1951 nữa. Quân đội của ông đã được chuẩn bị tốt hơn. Họ có thái độ cư xử đúng mức với nhân dân để tranh thủ tín nhiệm và giờ đây quân với dân đã khăng khít như “cá với nước”. Võ Nguyên Giáp khẳng định quân đội của ông không bao giờ xâm phạm tài sản của dân, không đụng đến cái kim sợi chỉ của dân. Không những quân đội đã nắm vững lý luận mà còn biết chiến đấu và được đào tạo chu đáo, cẩn thận, đạt đến trình độ cao về chiến lược, chiến thuật. Ông cũng nghĩ như vậy về cán bộ của ông. Ông nói: “Mỗi người biết tỏ ra kiên quyết, can đảm, đảm bảo tự do và dân chủ nội bộ và đoàn kết một lòng với chiến sĩ”. Võ Nguyên Giáp cho rằng công tác chính trị là linh hồn của quân đội.
Võ Nguyên Giáp biết rằng quân đội của ông được giáo dục chính trị tốt theo đường lối của Đảng. Họ đã biết xử trí các tình huống quân sự phức tạp. Bằng cách điều động khéo léo lực lượng vào đầu năm 1952, Võ Nguyên Giáp đã giành thế chủ động chiến lược từ Pháp kể từ khi chúng đưa quân tái chiếm Hòa Bình. Cuối năm 1952, Võ Nguyên Giáp đã chuyển hướng tiến công lên vùng núi Tây Bắc rồi sang Lào, buộc địch thủ phải giao chiến trên địa hình do chính ông lựa chọn và chúng đã phải tăng cường các vị trí đóng quân phòng thủ kém hơn vùng châu thổ sông Hồng. Võ Nguyên Giáp ca ngợi thắng lợi của ông, biến hậu phương của đối phương thành hỏa tuyến của mình. “Khi tiến công các cứ điểm sơ hở của địch, chúng ta đã buộc chúng phân tán lực lượng”. Cuối cùng ông dồn Pháp vào thế phải lựa chọn: hoặc là bảo vệ Lào hay bỏ rơi Lào để chỉ chiếm vùng lõm còn được tự do ở ven biển Việt Nam hay Campuchia.
Tướng Navarre mới đến bị kẹt giữa ý muốn đánh bại Việt Minh ở ngay trên đất Việt Nam và đồng thời chặn không được tiến quân sang Lào, ông cho rằng mình có thể cùng một lúc đạt được hai mục tiêu đó bằng cách thiết lập ở miền Bắc một nơi “bỏ neo”, một trung tâm hành quân để từ đó các lực lượng của Pháp có thể xuất phát tiến công lực lượng của Võ Nguyên Giáp. Thiết lập một đội hình như thế ở Điện Biên Phủ sẽ uy hiếp sườn của Võ Nguyên Giáp ở phía tây bắc Bắc Bộ, buộc Võ Nguyên Giáp phải phân tán lực lượng giữa đồng bằng và vùng núi, che chở được nước Lào, gây khó khăn về tiếp tế cũng như về triển khai lực lượng, cũng nhân dịp này cắt đứt nguồn lợi về thuốc phiện ở vùng núi Tây Bắc mà Võ Nguyên Giáp đã dùng để mua vũ khí cho quân đội.
Kế hoạch đó, theo Navarre, có thể chấm dứt chiến tranh trong 18 tháng. Theo Navarre và các cố vấn của ông, đội quân viễn chinh đang ở tình thế khó khăn như hiện nay chính là vì phải phân tán lực lượng, rải quân chiếm đóng hàng nghìn đồn bốt và cứ điểm phân tán khắp nơi trên khắp các mặt trận để đối phó với chiến tranh du kích của Võ Nguyên Giáp. Kết quả là quân Pháp thiếu hẳn một đội quân cơ động để chống lại chủ lực của Võ Nguyên Giáp. Vì vậy, Navarre ra lệnh phải có thêm lực lượng mới tăng viện khẩn cấp sang Việt Nam. Vào khoảng cuối năm 1953, Navarre chỉ huy tất cả 84 tiểu đoàn trên toàn Đông Dương và ông rút ra kết luận là đã đến lúc chiếm đóng Điện Biên Phủ, trong một cuộc hành quân mang biệt danh Castor, triển khai ngày 20/12 và hình như phù hợp với khẩu hiệu được Navarre dùng để cổ vũ quân sĩ của ông là “luôn luôn giữ chủ động và luôn luôn tiến công”.
Để kế hoạch thành công, Navarre phải dựa vào hai sĩ quan khác là Cogny và Castries. Thiếu tướng René Cogny tốt nghiệp Trường võ bị Saint-Cyr, cựu sĩ quan pháo binh và là phó tướng của Navarre ở Bắc Bộ. Ông văn võ toàn tài, lại tốt nghiệp cả khoa Chính trị và Luật. Võ Nguyên Giáp và Cogny là hai tướng lĩnh có bằng cấp cao nhất ở Đông Dương. Cogny đã hai lần bị Đức bắt làm tù binh trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Lần đầu vào năm 1941, ông trốn trại và lần thứ hai vào năm 1943. Cogny lên chức rất nhanh trong những năm sau chiến tranh cho đến khi được giao chức vụ chỉ huy trưởng quân Pháp ở Bắc Bộ, mặc dù ông không tán thành kế hoạch Điện Biên Phủ nhưng không bao giờ ông bày tỏ công khai sự bất đồng của mình.
Mấy ngày sau khi cho quân dù nhảy xuống Điện Biên Phủ, Navarre chọn đại tá Christian Marie Ferdinand de la Croix de Castries làm người chỉ huy lực lượng quân đồn trú. Là một sĩ quan xuất sắc, De Castries đôi khi làm khách mời phải khiếp đảm khi đang buổi chiêu đãi ông bỗng dưng giang tay ném cái cốc đang cầm xuống đất vỡ tan rồi nhặt mảnh vỡ nhai rau ráu. Ông tự hào về phẩm chất lực sĩ của ông và ông là một phi công táo bạo. Là kỵ sĩ có tài, ông chiếm giải quán quân năm 1933 về cưỡi ngựa vượt qua chướng ngại và trong một cuộc thi đấu năm 1935, ông còn được giải nhất về nhảy dài trên mình ngựa. Ông đã có thời gian phục vụ trong binh chủng kỵ binh trước khi chuyển sang binh chủng xe tăng. Ông cũng bị bắt làm tù binh năm 1941 nhưng đã vượt ngục. Ông chạy sang phía lực lượng nước Pháp tự do chống Đức của De Gaulle. Luôn vui sống trong thực tại, một hôm De Castries phát biểu rằng cuộc sống êm đềm là có một con ngựa để cưỡi, kẻ địch để tiêu diệt, và có một người đàn bà trên giường ngủ. De Castries có lẽ sẽ là một chiến binh kỵ mã xuất sắc hơn là sĩ quan bộ binh. Ngày 8/12/1953, ông được giao chỉ huy lực lượng đồn trú tại Điện Biên Phủ.
Điện Biên Phủ là một làng Thái có 112 nóc nhà, không có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt nào hơn là ở cách biên giới Lào 13 km, ở đầu mối giao thông lên phía bắc để đi Trung Quốc, xuống phía nam sang Lào và đông bắc là đi vào vùng rừng Tây Bắc. Nguồn lợi chủ yếu là gạo và thuốc phiện. Chiếm một vùng thung lũng bằng phẳng hình trái tim, Điện Biên Phủ có khoảng 19 km chiều dài và 10 km chiều ngang, xung quanh là rừng rậm và đồi núi không cao nhưng nhiều dốc đứng. Các nhóm người Mèo sinh sống trên sườn núi cao. Người Thái dưới thung lũng sống bằng canh tác lúa và ở thành từng làng xóm rải rác và đông dân nhất là Mường Thanh. Một con sông nhỏ: sông Nậm Rốm chảy qua cánh đồng Mường Thanh từ bắc xuống nam. Người Pháp đã xây trước ở đây hai đường băng. Đường băng thứ nhất gần Mường Thanh, một sân bay khác nhỏ hơn nằm sâu về phía nam. Hai đường băng này được dùng để tiếp nhận người và trang bị vũ khí từ Hà Nội chở lên cách 270 km đường chim bay. Địa hình Điện Biên Phủ khiến Navarre cho đây là một địa điểm lý tưởng vì ông nghĩ Việt Minh không thể nào đưa đến những khẩu pháo nhẹ theo các đường mòn nhỏ hẹp đi qua rừng và sườn núi cao chứ đừng nói những khẩu trọng pháo.
Các máy bay Mỹ do phi công Pháp lái chở hàng nghìn lính dù đến khu vực. Trong số đó có Tiểu đoàn Dù thuộc địa số 6 (6e BPC), Tiểu đoàn Dù tiêm kích số 2 (2e BPC) và Tiểu đoàn Dù lê dương số 1 (1er BEP) gồm một phần lính SS của Đức. Hàng nghìn binh sĩ và khối lượng vật tư khổng lồ đã được thả dù hoặc được máy bay chở đến đường băng. Đơn vị đầu tiên nhảy dù xuống là Đại đội Công binh không vận số 17, làm các công trình phòng thủ đầu tiên đến ngày 4/12/1953 thì rút về Hà Nội và được thay thế bằng Đại đội 3 tiểu đoàn công binh số 31.
Trung đoàn 148 của Võ Nguyên Giáp (thực ra là Trung đoàn độc lập của Quân khu Tây Bắc) đóng trên các ngọn đồi để quan sát đã lặng lẽ rút khi lính dù còn lơ lửng trên không trung. Pháp đổ vào đây một lực lượng khá mạnh nên người ta không chủ trương đánh chặn đến cùng. Đó là lúc bộ đội của Võ Nguyên Giáp báo cáo về những gì họ đã thấy.
Cuối cùng, 10.814 người cùng với vũ khí của quân đội viễn chinh Pháp ở Điện Biên Phủ để chờ Việt Minh đến tấn công. Trong số này chỉ có 7.000 người là lực lượng chiến đấu thực sự, còn lại là lực lượng phụ trợ. Trên 1/3 quân đồn trú là lính người Việt thuộc quân đội “quốc gia” mới thành lập của Bảo Đại, vị cựu hoàng đế đã thoái vị và cộng tác với Việt Minh nay quay về hợp tác với Pháp. Số còn lại là lính của Navarre đến từ Maroc, Liban, Syria, Chad, Guadeloupe và Madagascar. Họ xây dựng các hầm ngầm (boong-ke), đào hào, gài mìn sát thương, rải dây thép gai thành từng lớp bùng nhùng nối tiếp như đàn phong cầm. Khi mọi công trình phòng thủ hoàn thành thì toàn cảnh Điện Biên Phủ đã trở thành một doanh trại khổng lồ, một tập đoàn cứ điểm.
De Castries giám sát công cuộc xây dựng, đầu đội mũ kỵ binh Algeria phục vụ trong hàng ngũ quân đội Pháp, quàng khăn đỏ và tay cầm roi da. Vốn nổi tiếng là người mê gái, De Castries đặt tên cho các vị trí tiền tiêu trong hệ thống phòng ngự theo tên các nhân tình của ông cộng với tên các nhân tình trước đây mà ông muốn họ là người bất tử. Rồi ông tập hợp các công sự chủ yếu ở gần đường băng và làng Mường Thanh. Đó là Huguette ở phía tây, Claudine ở phía nam, Eliane ở phía đông và Dominique ở đông bắc. Boong-ke tổng hành dinh đặt ở giữa. Các cứ điểm đều đặt trên gò hoặc trên những quả đồi nhỏ nổi lên giữa cánh đồng. De Castries cố gắng kết hợp hỏa lực sao cho mỗi vị trí đủ bao quát được toàn thể tạo thành một hàng rào đường bắn chéo cánh sẻ, yểm trợ cho nhau.
Bốn khu vực phòng thủ độc lập hơi xa khu trung tâm. Béatrice cách trung tâm 1,6 km trên một ngọn đồi án ngữ lối vào từ phía bắc. Gabrielle ở phía nam cách trung tâm 3 km ở phía đông con đường lên biên giới Trung Quốc. Anne Marie cũng vắt vẻo trên một ngọn đồi cách trung tâm khoảng 2,5 km ở phía tây bắc đường băng. Mỗi vị trí nói trên do một tiểu đoàn chiếm giữ. Cách trung tâm 6,5 km về phía nam là Isabelle gần đường băng phụ. Tuy là vị trí thất thủ cuối cùng trong cuộc tấn công của Việt Minh, vị trí này có nhiều bất tiện. Tại đây trên đồi cao có ba tiểu đoàn bộ binh (trong tổng số 12 tiểu đoàn tại Điện Biên Phủ), một trung đội xe tăng và một cụm pháo 105mm. Một phần ba lực lượng đồn trú ở Điện Biên Phủ ném vào đây nhưng do ở quá xa trung tâm nên Isabelle tuy bị Việt Minh tạm bỏ rơi để tập trung đánh các vị trí khác, nhưng cũng không làm được gì đáng kể để yểm hộ các vị trí ở trung tâm đang bị tiến công. Những nhà quan sát vô tư khi có mặt tại chỗ đều dễ dàng nhận xét rằng phần chủ chốt trong hệ thống phòng ngự gây nhiều trở ngại nhất cho đối phương là vùng gần các dãy đồi nổi lên ở cực bắc của lòng chảo Mường Thanh. Các cứ điểm đều bố trí kém hiệu quả. Các khẩu pháo tại cứ điểm Isabelle ở phía nam không thể yểm trợ hữu hiệu cho Gabrielle, Béatrice hoặc Anne Marie. Hơn nữa, việc xây dựng các công sự còn nhiều điều đáng chê trách. Các dây điện thoại dã chiến đáng lẽ phải chạy ngầm dưới đất thì đều lộ thiên trên mặt đất. Các cứ điểm không có hệ thống đường hào nối từ cứ điểm này sang cứ điểm khác, không có vành đai chung về dây thép gai, về bãi mìn. Các hầm hào không có nắp che bảo vệ dẫn đến bệnh xá dã chiến và bản thân các bệnh xá này cũng không đủ khả năng để cứu chữa thương binh nặng.
Các đơn vị không vận đến đầu tiên được trang bị nhẹ không đủ sức xây dựng hầm hào phòng ngự vững chắc và trong mấy ngày đầu họ không làm được gì đáng kể để cải thiện tình thế. Chỉ khoảng 30 ngày trước khi nổ ra trận đánh, họ mới bắt đầu tiến hành xây công sự phòng ngự và tất nhiên họ không còn thì giờ để khắc phục những chểnh mảng nói trên. Công binh đã tính toán: họ thiếu ít nhất 30.000 tấn thiết bị xây dựng. Họ không đủ vật liệu để gia cố vững chắc sở chỉ huy, các trạm chỉ huy, trung tâm truyền tin và phòng chiếu X quang của bệnh viện.
Trước công cuộc chuẩn bị của Navarre ở Điện Biên Phủ, Võ Nguyên Giáp nhanh chóng phản ứng. Một tuần sau khi Pháp đưa quân lên Điện Biên Phủ, Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho bốn đại đoàn chuẩn bị lên đường tiến về Điện Biên Phủ. Các sĩ quan tình báo Pháp ước tính quân đội của Võ Nguyên Giáp có khoảng 49.000 người, con số này chỉ chiếm 10% so với thực tế. Tướng Navarre không kể gì đến sự ước tính đó. Ông vẫn cho rằng lực lượng của Võ Nguyên Giáp tiến lên Điện Biên Phủ cuối tháng 11/1953 chủ yếu là những bộ phận của nhiều sư đoàn cho đến khi tình hình xấu đi rõ rệt, Navarre vẫn tiếp tục cho rằng đối phương không có hơn một đại đoàn ở quanh Điện Biên Phủ. Sau này có thể tăng cường thêm nhưng vẫn chỉ có một đại đoàn.
Các cơ quan tình báo của Pháp bị lên án là đưa ra con số không chính xác. Trên nền tảng sai lầm về số quân bao vây Điện Biên Phủ đó, phòng Nhì của quân đội đã suy ra lực lượng pháo binh của Việt Minh chỉ gồm súng cối, đại bác tầm ngắn chỉ bắn được 25.000 phát không hơn. Những nhà chiến lược đó còn tin vào cố gắng của máy bay Pháp có thể ngăn chặn được các đoàn dân công chở đạn dược cho pháo binh Việt Minh. Các cố vấn pháo binh và không quân thì ỷ vào khả năng xác định các hỏa điểm của các khẩu pháo đối phương trước khi để chúng phát triển thành mối đe dọa thật sự. Đánh giá thấp khả năng pháo binh của Võ Nguyên Giáp, người Pháp đã đặt pháo của họ trong những vòng tròn lộ thiên.
Bernard Fall, nhà báo theo dõi thảm bại Điện Biên Phủ cho rằng sai lầm lớn nhất của người Pháp là đã đánh giá quá cao đến mức tai hại về khả năng của mình. Ông nói: “Chính là một khuyết điểm của cả dân tộc mà chúng tôi hình như mắc phải từ trước các chiến dịch của Julius Cesar tấn công xứ Gaul và hình như lên đến đỉnh cao trong trận Điện Biên Phủ…” Tuy nhiên, niềm tin của họ được nhiều người chia sẻ và củng cố thêm. Nhiều cố vấn cao cấp Pháp và Mỹ đã đến thăm Điện Biên Phủ và đều tuyên bố hài lòng. Trong số đó có Paul Ely, Tổng tham mưu trưởng Pháp, tướng John “Iron Mike” O’Daniel, Trưởng nhóm Viện trợ và Cố vấn quân sự Mỹ (USMAAG). Ngay cả nhà tiểu thuyết Mỹ Graham Greene cũng xuất hiện ở Điện Biên Phủ. Không một ai đã đến Điện Biên Phủ trước khi trận đánh bắt đầu đưa ra nhận xét như lưu ý các ngọn đồi ở gần đó hay gợi ý rằng nếu Việt Minh có pháo binh thì quân Pháp sẽ ở trong tình thế tuyệt vọng khác nào “cua nằm trong giỏ”. Trái lại, cũng như Navarre, họ đều tán tụng triển vọng thắng lợi. Sự lạc quan của họ tất phải được chính thức báo cáo về nước. Tờ báo Mỹ US News and World Report thông báo cho độc giả biết theo ý phần lớn các chuyên gia Mỹ, chiến thắng ở Việt Nam đã ở trong tầm tay. Ngay từ đầu, tướng Navarre đã tỏ ra lạc quan khi ông ta nói thắng lợi sắp đến gần: “Cách đây một năm, không một ai trong chúng ta có thể trông thấy thắng lợi. Bây giờ chúng ta đã nhìn thấy rõ ràng như ánh sáng cuối đường hầm”. Hình ảnh này sẽ còn được hậu thế nhắc đi nhắc lại nhiều lần nữa.
Với lực lượng quân đội và trang thiết bị hùng hậu, Navarre đã hoàn toàn sẵn sàng cho trận đánh ở Điện Biên Phủ. Ông có 12 tiểu đoàn được hai cụm pháo 75 mm và hai cụm pháo 105 mm cùng với bốn khẩu trọng pháo 155 mm và một số lớn súng cối nặng yểm trợ. Một trực thăng túc trực trên đường băng phía bắc sẵn sàng cất cánh để chỉ điểm cho pháo. Sáu máy bay ném bom và chiến đấu túc trực sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu yểm trợ bộ binh trong các cuộc hành quân. Một chiến xa nhẹ được tháo rời và đưa lên máy bay chở lên Điện Biên Phủ đã được lắp ráp. Một đại đội vận tải đảm nhiệm chuyên chở người và đạn dược đến ứng cứu các vị trí bị uy hiếp.
Còn có cả một đội gái điếm Algeria và Việt được tổ chức trong các BMC (Nhà thổ dã chiến cơ động) được máy bay chở lên để thỏa mãn nhu cầu của quân đồn trú: 11 cô gái của bộ lạc Oulad Nail xứ Algeria xa xôi được phân phối cho cứ điểm Dominique còn sáu cô gái Việt Nam (đúng hơn là năm cô và một nạ dòng) thì giao cho khu vực Claudine. Ban ngày khi chiến sự bắt đầu, các cô khi thì ẩn trong các boong-ke để “khích lệ” binh sĩ, khi làm công việc y tá, hộ lý chăm sóc thương binh trong các bệnh xá ngầm dưới lòng đất, ngoài những “hoạt động” quen thuộc của họ. Bốn cô gái Algeria không may trúng đạn bỏ xác tại Điện Biên Phủ. Các cô gái điếm sống sót làm “công việc” của họ đến phút cuối cùng mới chịu ra hàng. Một trong những cô gái Algeria tên là Mimi đã cưới một người đàn ông Algeria đang điều trị vết thương tại một bệnh xá trong trại tù binh và khi được trao trả đã sinh con đầu lòng tại Hà Nội.
Navarre nghĩ rằng Võ Nguyên Giáp sẽ cần ba sư đoàn để bao vây Điện Biên Phủ, như vậy sẽ giam chân họ trong vai trò tĩnh tại như người Pháp cũng đã từng bị bắt buộc phải làm như thế. Nếu họ quyết định đến lúc nào đó tiến công tập đoàn cứ điểm thì họ sẽ phải xuất đầu lộ diện và hỏa lực tập trung của người Pháp sẽ “làm cỏ” họ. Họ càng tỏ ra can đảm, người ta càng dễ loại họ khỏi vòng chiến đấu. Pháo binh Việt Nam sẽ không làm gì được quân Pháp, còn phía Pháp không phải lo lắng gì về tiếp tế vì các sân bay hạ cánh đều nằm trong tầm bảo vệ của các đơn vị phòng ngự bao quanh, không thể gặp nguy hiểm.
Trong tháng 1/1954, khi các lực lượng Việt Minh kéo đến đông và khép kín vòng vây quanh Điện Biên Phủ, các đội tuần tiễu Pháp mới cố tìm cách để kiểm soát các ngọn đồi xung quanh. Họ thường chạm trán với các vị trí đóng quân lẻ của đối phương và đã xảy ra nhiều cuộc đụng độ. Quân của Võ Nguyên Giáp càng lên đông thì nguy hiểm càng lớn đối với các đội tuần tiễu Pháp bị phục kích hoặc bị tấn công trực diện, khiến chúng không dám đi quá xa chu vi kiểm soát vốn rất nhỏ hẹp.
Những người có trách nhiệm của Pháp hình như không nhận ra họ đã ba lần tính sai. Một là quân số đối phương rất đông, hai là sức mạnh của các loại pháo giữa hai bên không hề mất cân đối, ba là khả năng tiếp tế. Những người ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ báo cáo với tướng Navarre rằng không xa Điện Biên Phủ, Việt Minh đã cho lập ba trạm chỉ huy sở, mỗi trạm quản lý một sư đoàn chủ lực cộngvới sư đoàn thứ tư đang trên đường đến đây. Đó không phải là lời cảnh báo đầu tiên. Ngày 11/11/1953, bảy ngày trước khi Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, đại tá Nicot lúc đó đang phụ trách vận tải đường không của Navarre đã viết cho Navarre rằng máy bay sẵn có không thể thỏa mãn nhu cầu liên tục về vật liệu nặng của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngày 25/2/1954 đến lượt tướng Fay – Tham mưu trưởng không quân – sau một chuyến viếng thăm Điện Biên Phủ đã ép Navarre rút quân khỏi Điện Biên Phủ. Navarre tuyệt nhiên không muốn nghe những ý kiến đó.
Võ Nguyên Giáp biết rằng nhược điểm lớn nhất của quân Pháp là khả năng tiếp tế cho tập đoàn rất hạn chế. Đường vận chuyển tiếp tế bằng đường bộ là không thể được, chỉ còn hai sân bay và phải dựa hoàn toàn vào đường không. Ngay từ đầu Võ Nguyên Giáp đã khẳng định dự kiến dùng hỏa lực pháo binh để phá hủy các đường băng hạ. Còn súng phòng không sẽ làm nốt phần còn lại. Võ Nguyên Giáp nghiên cứu các phương án khác nhau cần lựa chọn. Ông đắn đo suy nghĩ, cân nhắc trước khi có quyết định dứt khoát. Đánh hay không đánh Điện Biên Phủ? Nếu đánh thì chọn cách đánh nào để đảm bảo chiến thắng? Võ Nguyên Giáp kể: “Có hai cách: đánh nhanh thắng nhanh hay đánh chắc thắng chắc?” Ông chọn đánh bất ngờ nhanh chóng, “trong ba đêm và hai ngày phải dứt điểm. Chiều 25/1 sẽ nổ súng.” Sáng hôm đó, lúc 10 giờ, Giáp họp ban tham mưu tại chỉ huy sở tiền phương gần Tuần Giáo.(1)
Ông triệu tập các cộng sự gần gũi để bàn lại phương châm tác chiến đồng thời ông còn phải đi thuyết phục các cố vấn Trung Quốc. Mao Trạch Đông đã ra lệnh một số cố vấn Trung Quốc giúp đỡ Võ Nguyên Giáp. Trong số cố vấn Trung Quốc có La Quý Ba, Mai Gia Sinh, Vi Quốc Thanh, Trần Canh, Đặng Nhất Phàn. Họ làm việc và công tác chặt chẽ với Bộ Tổng tư lệnh Việt Nam và đã đưa ra những phương án tác chiến trong các chiến dịch Cao Bằng, Đông Khê và Hòa Bình, cũng như khi mở chiến dịch ở Lào.
Hồ Chí Minh không muốn viện trợ của Trung Quốc giảm đi. Từ tháng 7/1950 cùng với 70 cố vấn trong nhóm Hoạt động thủy quân Nam Hải, Mao Trạch Đông còn gửi cả lương thực. Vì thế, tại Điện Biên Phủ, Võ Nguyên Giáp đã có trong tay 200 khẩu pháo, 10.000 phuy xăng, 3.000 súng các loại, 2,4 triệu viên đạn, 60.000 quả đạn pháo và 1,7 triệu tấn gạo. Ngay cả một sư đoàn pháo binh Trung Quốc cũng sẵn sàng tham chiến.
Trong quá trình chuẩn bị đánh Điện Biên Phủ, các cố vấn Trung Quốc đã gây sức ép để Võ Nguyên Giáp chọn phương án đánh nhanh thắng nhanh bằng cách dùng chiến thuật “biển người” như họ đã thử nghiệm ở Triều Tiên để nhanh chóng kết thúc chiến cuộc. Nhưng ban tham mưu của Võ Nguyên Giáp lo lương thực không chở đến kịp. Ông bèn hỏi tham mưu trưởng và các sĩ quan tập họp xung quanh: “Chúng ta có đảm bảo chắc thắng với phương án đánh nhanh không? Quyết định của chúng ta chỉ phụ thuộc vào câu trả lời cho câu hỏi này”. Ông lo ngại bộ đội thiếu kinh nghiệm đánh tập đoàn cứ điểm. “Sau khi phân tích tỉ mỉ những tin tức mới nhận được, tôi đi đến kết luận là phương châm đánh nhanh có thể thắng lợi nhưng không chắc chắn trăm phần trăm”. Ông cảm thấy trong bộ tham mưu của ông không có sự đồng thuận nhất trí và tin chắc vào thắng lợi cũng như giữa họ và cố vấn Trung Quốc.
Võ Nguyên Giáp hành động ngay không chút do dự. Sau một đêm mất ngủ để xem xét các vấn đề, ông kết luận: “Đó là sự tự sát nếu đưa chiến sĩ vào một trận đánh mà không chuẩn bị chống pháo binh, xe tăng và máy bay của địch. Tôi ra lệnh hoãn trận đánh mở màn. Ban tham mưu của tôi không hiểu ra sao cả. Nhưng không cần! Tôi yêu cầu chấp hành tuyệt đối không thảo luận, không giải thích… Chúng ta đã kiên quyết chọn… phương châm đánh chắc tiến chắc”.
“Quyết định đúng đắn như vậy”, Võ Nguyên Giáp nói, “là triệt để tuân theo nguyên tắc cơ bản của việc điều hành chiến tranh cách mạng, đánh để cho thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”. Võ Nguyên Giáp tỏ ra thận trọng hơn từ năm 1951 khi ông đánh Vĩnh Yên, Mạo Khê và dọc sông Đáy, khi đó ông không đủ tin chắc là sẽ giành thắng lợi. Các cố vấn Trung Quốc cũng ngỡ ngàng khi Võ Nguyên Giáp thay đổi cách đánh Điện Biên Phủ. Trần Canh thì cáo buộc Võ Nguyên Giáp và các tướng lĩnh Việt Nam khác là thiếu tinh thần Bôn-sê-vích. Ông cũng trách cứ Võ Nguyên Giáp là “thiếu trung thực và thẳng thắn đối với các đồng chí Trung Quốc”.
Tuy vậy, Bộ Chính trị nhanh chóng phê chuẩn quyết định của Võ Nguyên Giáp. Buổi chiều hôm đó, Giáp nhớ lại, sau khi được các đồng minh Pathet Lào ở Lào đồng ý, ông ra lệnh mở cuộc tiến công vào Luang Prabang. Ông giải thích cuộc tiến công đó nhằm nghi binh, đánh lạc hướng chú ý của lực lượng không quân Pháp và hút vào chiến trường khác, tạo thuận lợi cho việc rời khỏi trận địa tiến công ở Điện Biên Phủ. “Quyết định thay đổi kế hoạch tác chiến… là một trong những quyết định quan trọng nhất, một trong những quyết định khó khăn nhất trong đời làm tướng của tôi…” Đêm hôm đó bộ binh, pháo binh rời khỏi trận địa trên cao nhìn xuống Điện Biên Phủ. “Chúng tôi mải mê bắt tay ngay vào công việc chuẩn bị mới.” Ông nói là lực lượng của ông không trở lại những vị trí trước đây. Võ Nguyên Giáp thay đổi hoàn toàn kế hoạch tác chiến hướng vào việc bao vây dài ngày để đảm bảo chắc thắng. Trận đánh mở màn bắt đầu lúc 17 giờ ngày 13/3/1954 bằng một cuộc tiến công từ phía đông chống lại một cứ điểm ở vành ngoài là Béatrice.
Giữa lúc đó, các cán bộ cấp dưới thực tập nhiều lần trên sa bàn dưới sự theo dõi chặt chẽ và kiểm soát không mệt mỏi của Võ Nguyên Giáp. Nếu làm sai, họ phải tự kiểm điểm rồi tập lại cho đến khi nắm vững mọi chi tiết liên quan đến vai trò và trách nhiệm của họ. Những cán bộ này sau khi được nghe Võ Nguyên Giáp giảng giải kỹ về phương châm tác chiến mới sẽ trở về đơn vị, đến lượt họ, lại nói lại cho cấp dưới, thực tập nhiều lần trên những mô hình lớn như thật về các vị trí của Pháp. Vì thế khi thời điểm tấn công đến, họ không bị bỡ ngỡ, khiếm khuyết, họ biết rõ điều gì sẽ xảy ra.
Họ thiếu các phương tiện cơ giới để đẩy nhanh tiến độ cung cấp hậu cần, họ phải trông vào đôi vai nặng trĩu và bước chân chậm chạp của dân công. Trong năm 1954, Việt Minh tiếp nhận một khối lượng tiếp tế của Trung Quốc và Liên Xô lên tới 400 tấn trên ngày, cần tới một số lượng lớn dân công để chuyển ra mặt trận. Nhưng cũng chưa đủ, Võ Nguyên Giáp huy động dân công và bộ đội sửa sang đường sá từ Trung Quốc, mở rộng các đường mòn để đưa pháo vào vị trí, dựng các công sự pháo xung quanh Điện Biên Phủ và đào một hệ thống hầm hào kéo dài đến tận hàng rào các công trình phòng ngự của Pháp.
Võ Nguyên Giáp khéo léo triển khai bộ đội, đảm bảo hậu cần cho 30.000 lính tiến lên Điện Biên Phủ, chuẩn bị cho trận đánh lớn nhất trong lịch sử kháng chiến chống Pháp. Họ vượt qua sông Đà, qua các cầu đặt ngầm dưới mặt nước, máy bay Pháp không thể phát hiện được. Một trung đoàn di chuyển trên 400 km đường mòn vượt qua các mỏm núi. Hàng vạn dân công đi theo các con đường mòn quanh co trong rừng rậm và trên sườn các vách đá thẳng đứng. Hàng vạn xe đạp thồ chuyên chở đạn đại bác. Các khẩu pháo tháo rời được xe đạp chở từng bộ phận đưa đến vị trí tập kết và được lắp ráp để kéo lên vị trí bắn. Sau này Võ Nguyên Giáp ghi lại một cách hài lòng: “Bộ đội, dân công mở đường tiếp tế từ Tuần Giáo đến cách đồn Pháp chỉ vài cây số về phía bắc [tại đây Võ Nguyên Giáp đặt chỉ huy sở tiền phương trong suốt thời gian bao vây Điện Biên Phủ]. Họ đã vạch các con đường qua rừng sâu, núi cao để xe kéo pháo, xây dựng các vị trí đặt pháo, đào giao thông hào trên núi xuống, vào tận sâu trong thung lũng Mường Thanh”.
Người Pháp thua trận đến nơi vì những dân công mang vác như thời nguyên thủy đó. Những nhà phân tích của Pháp đã tính toán rằng Võ Nguyên Giáp không thể đặt pháo nặng trên những ngọn đồi, sườn núi xung quanh và nguồn tiếp tế của ông sẽ cạn kiệt sau bốn ngày giao chiến. Họ lại hai lần sai lầm. Nhiều đoàn tiếp tế dài đến hàng trăm cây số bất chấp đường xấu, ít thuận tiện cho xe cộ, tệ hại hơn nữa là bị không quân Pháp ném bom không ngừng. Ngoài những khó khăn đó, dân công tiếp vận của Võ Nguyên Giáp còn phải chịu đựng mưa kéo dài, kéo theo sạt lở, bùn lầy, đường ngập… tất cả những trở ngại ấy chẳng kém gì bị máy bay oanh tạc. Nhưng hãy nghe Võ Nguyên Giáp kể, “Các đoàn xe vận tải dũng cảm vượt qua suối sâu, đèo cao, rừng núi rậm rạp, lái xe nhiều đêm không ngủ để chở súng đạn ra tiền tuyến”. Từng đoàn xe đạp thồ chất đầy lương thực, súng đạn, ì ạch tiến từng bước, không kể hàng nghìn bè mảng lướt trên sông, chở hàng đến các nơi chuyển tải, ở đó hàng vạn dân công chờ sẵn, tiếp tục khiêng gánh vượt qua luồng lạch và các đoạn đường mà thuyền bè, xe đạp hay xe ô tô tải không đi được. “Tất cả mọi thứ”, Võ Nguyên Giáp kể: “từ bếp lưu động đến bệnh viện lưu động dã chiến tiếp tục được chở ra phía trước bất chấp pháo binh hay không quân địch bắn phá”.
Ông đã nói quá một chút khi nói “bệnh viện lưu động dã chiến”. Bernard Fall dẫn chứng Võ Nguyên Giáp chỉ có một bác sĩ phẫu thuật thật sự là bác sĩ Tôn Thất Tùng để chăm sóc 50.000 lính ở Điện Biên Phủ! Nhưng một mình ông với sáu trợ lý phụ mổ đã có những cố gắng không mệt mỏi. Với thiết bị nghèo nàn thiếu thốn, với một số thuốc ít ỏi, làm việc trong những điều kiện hoàn toàn thiếu vệ sinh, đội ngũ bác sĩ quân y nhỏ bé này đặc biệt thất vọng khi phải “đánh vật” với những chấn thương tâm thần hung dữ thường không tránh được của những người lính bị thương ngoài mặt trận.
Dù thế nào Võ Nguyên Giáp cũng ghi nhận rằng: “Chưa bao giờ những chàng trai trẻ Việt Nam phải đi xa nhà đến những nơi xa xôi trong nước nhiều như thế”. Ông nói thêm: “Những con người đó không phải là khách đi du lịch mong muốn những chuyến viếng thăm có hướng dẫn!” Đó là những người đổ mồ hôi sôi nước mắt, những con người lao động vất vả để đào hàng cây số hào. Những đường hào tuyệt vời có thể che chắn cho bộ đội triển khai và vận động trên những quãng trống lộ thiên để tránh bom na-pan và đạn pháo. Ông viết: “Quân đội của chúng ta vượt núi, xuyên rừng để làm đường kéo pháo lên Điện Biên Phủ. Ở đó không thể có đường sá, các khẩu pháo chỉ nhờ có mồ hôi và công sức của chiến sĩ mà được đưa vào vị trí”.
Ngay khi Võ Nguyên Giáp chuẩn bị bao vây Điện Biên Phủ, ông duy trì sức ép ở nơi khác với người Pháp. Từ ngày 10/12/1953, ông tiếp tục tấn công Lai Châu. Tại đây chỉ trong vòng 10 ngày đêm chiến đấu liên tục, quân đội của ông đã diệt 24 đại đội lính Pháp. Tại Lào với sự góp sức của bộ đội Pathet Lào, các đơn vị của Võ Nguyên Giáp tiếp tục giao chiến với quân Pháp. Trong những ngày cuối tháng 1 đầu tháng 2, quân đội của ông lại mở cuộc tiến công Đắk Tô, toàn bộ tỉnh Kon Tum thất thủ. Võ Nguyên Giáp nhận thấy Pháp phải rút bớt quân ở đồng bằng sông Hồng để tăng cường cho Trung Lào rồi chuyển xuống tiếp cứu cho Tây Nguyên. “Cuộc tiến công của chúng ta ở Tây Nguyên tiếp tục đến tháng 6/1954 và giành được chiến thắng vang dội ở An Khê, đánh tan trung đoàn cơ động 100 của Pháp rút từ mặt trận Triều Tiên về và tiếp đó giải phóng An Khê”. Ngoài tổn thất về quân số, Pháp còn bị phá hủy và tịch thu nhiều xe và vũ khí, đạn dược.
Nhưng chưa phải đã hết. Võ Nguyên Giáp nhận thấy cần phải triệt nguồn tiếp tế bằng máy bay của Pháp. Các đơn vị đặc nhiệm xâm nhập vùng châu thổ sông Hồng tiến vào tận ngoại ô Hải Phòng và Hà Nội, phá hủy 78 máy bay đang đậu tại sân bay Cát Bi và Gia Lâm để chở đồ tiếp tế lên tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Họ cũng quét sạch nhiều vị trí kiên cố dọc đường số 5 nối liền Hải Phòng với Hà Nội là con đường tiếp tế huyết mạch của quân đội Pháp. Võ Nguyên Giáp hy vọng nhiều ở kết quả của các trận tấn công đó. Ở miền Nam trên một nghìn đồn bốt của Pháp bị quân đội của Võ Nguyên Giáp đánh chiếm, buộc phải rút bỏ. Quân đội của Võ Nguyên Giáp đã tiến công và đánh đắm nhiều tàu chiến ở cảng Sài Gòn và nơi khác. Ngay trong khi trận Điện Biên Phủ đang diễn ra, Võ Nguyên Giáp tiếp tục ra lệnh cho một số đơn vị đến những địa điểm cách 200, 300 km để mở các cuộc tấn công bất ngờ vào doanh trại Pháp rồi lại trở lại mặt trận Điện Biên Phủ tiếp tục nhiệm vụ của mình. Nhìn vào đâu, Võ Nguyên Giáp cũng thấy tinh thần đấu tranh kiên cường, biểu hiện rõ của chủ nghĩa anh hùng.
Võ Nguyên Giáp nhận xét rằng địch thủ của ông đang gặp khó khăn trên tất cả các mặt trận. Trong lúc quân Pháp đang lúng túng thì dân quân du kích của Võ Nguyên Giáp tiến công có hiệu quả vào hậu phương của địch, kết hợp với Điện Biên Phủ, hoạt động ở vùng tạm chiếm suốt từ bắc chí nam đã vô hiệu hóa sự kiểm soát của Pháp. Võ Nguyên Giáp nghĩ rằng có thể khẩu hiệu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã gieo một luồng phấn khởi mới mẻ trong nhân dân. Ông tán thành phương châm “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”. Quân đội của Võ Nguyên Giáp đã đến vị trí và sẵn sàng. Xông lên hàng đầu, xung phong chính diện, chiến tranh chiến hào, đòi hỏi những người lính dũng cảm tuyệt đối. Tướng Davidson đã miêu tả đúng những con người đó: “Với nhiệm vụ phải hoàn thành, họ là những người lính gan dạ như bất kỳ một quân đội nào trong các cuộc chiến tranh ở thế kỷ XX mà chúng ta biết đến”.
Có sự tương phản hiển nhiên giữa các tướng lĩnh khác nhau dính líu đến kế hoạch của trận đánh Điện Biên Phủ. Navarre khi làm việc trong phòng có lắp điều hòa tại Sài Gòn, lúc nào cũng mang quân phục trắng bong, có đeo đầy đủ các huân huy chương. Còn Cogny thì làm việc với các sĩ quan tùy tùng tại tòa nhà kiên cố do người Pháp xây dựng từ xưa tại Hà Nội. Hàng ngày hai ông chỉ trao đổi kế hoạch qua các bức điện. Còn De Castries thì làm việc trong căn hầm ngầm được gia cố nhếch nhác, bẩn thỉu giữa cánh đồng Mường Thanh, xung quanh toàn lô cốt, hầm hào, ụ súng, dây thép gai, v.v… Nhưng vốn trung thành với sở thích, ông vẫn làm cho mọi thứ quanh ông có nét hào nhoáng chói lọi trong điều kiện có thể. Bộ đồ ăn hàng ngày mà sĩ quan hậu cần đem cho ông vẫn là bộ đồ ăn bằng bạc sáng loáng đặt trên bàn có phủ vải lanh trắng tinh. Còn tướng Võ Nguyên Giáp thì ngược lại, theo dõi, giám sát các cuộc hành quân của quân đội từ đại bản doanh đặt trong một chiếc hang gần Tuần Giáo. Sự khác nhau giữa những con người này như Davidson đã nói rõ ràng: “Mỗi nhân vật chủ chốt sẽ chịu đựng thiếu thốn và đau khổ đến đâu để giành chiến thắng?”
Cuộc đụng độ đầu tiên về bộ binh giữa hai bên xảy ra sáng sớm ngày 11/3/1954 khi quân đội Pháp gặp phải hai đơn vị Việt Minh lợi dụng đêm tối đã đào hào dưới chân hàng rào quanh cứ điểm Gabrielle (Độc Lập). Quân Pháp đã đẩy lui được bên tấn công sau khi hạ được 58 bộ đội của Giáp. Hoạt động nhỏ nhoi này làm mát lòng đôi chút bên phòng thủ, khiến họ vững tin hơn vào khả năng chống đỡ được các đợt tấn công sau này. Họ không biết điều gì đang chờ đợi mình phía trước.
Ngày 13/3/1954, hồi 17 giờ, các làn đạn pháo Việt Nam bắt đầu chụp lên đồi Him Lam – trung tâm các công sự phòng thủ ở Điện Biên Phủ. Thời đại nguyên tử đã bắt đầu nhưng Võ Nguyên Giáp đã tôn vinh trở lại các chiến thuật trong chiến tranh bao vây. Cuộc vây hãm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã được tiến hành trong ba đợt:
- Đợt 1: Phá hủy đường băng sân bay phân khu bắc và chiếm lĩnh ba cứ điểm ngoại vi: Béatrice (Him Lam), Gabrielle (Độc Lập) và Anne Marie (Bản Kéo).
- Đợt 2: Thắt chặt vòng vây tiêu diệt phân khu trung tâm đầy ắp lực lượng đề kháng, xung quanh đường băng và xung quanh Mường Thanh nơi đặt chỉ huy sở của De Castries.
- Đợt 3: Tiến công lần cuối cùng, tiêu diệt nốt phần còn lại kể cả cứ điểm Isabelle (Hồng Cúm).
Trong khoảng thời gian từ ngày 10 đến 12/3 (các tác giả đưa ra các mốc thời gian khác nhau), pháo binh của Võ Nguyên Giáp bắn phá lần đầu tiên sân bay Mường Thanh, tạo nên những hố sâu trên đường băng làm những người bị bao vây bên trong tập đoàn cứ điểm rụng rời khi họ hiểu rằng như vậy là đi tong lối thoát duy nhất của mình. Nếu đường băng bị phá hủy, họ khác nào lũ chuột trong tổ bị bịt kín lỗ, như cua trong giỏ đậy kín nắp. Ngay cả thương binh cũng hết đường di tản. Như Võ Nguyên Giáp nói: “Bằng cách tập trung lực lượng để có lực lượng áp đảo mỗi khi đánh (từng) cứ điểm, chúng tôi chắc chắn đè bẹp đối phương”. Khi cuộc bắn phá sân bay bắt đầu, tướng Cogny lúc đó đang ở Điện Biên Phủ. Ông vội vã lên máy bay và lệnh cho phi công cất cánh ngay lập tức, kẻo không kịp!
Quân Pháp bị bất ngờ ngay từ đầu cuộc vây hãm. Trong kế hoạch nghi binh cho đến hôm đó, Võ Nguyên Giáp mới chỉ dùng pháo 75 mm. Chỉ đến ngày 13/3, khi trận đấu mở màn bắt đầu ông mới hạ lệnh cho các khẩu pháo 105 mm vào trận. Ông đã đánh lừa địch thủ và dẫn họ đến chỗ tin vào những điều họ muốn tin. Bây giờ họ bắt đầu trả giá cho tính kiêu căng của họ bởi lẽ khả năng pháo binh của Võ Nguyên Giáp vượt xa những ước lượng của các cơ quan tình báo Pháp.
Bao vây Điện Biên Phủ tất cả có 144 khẩu pháo 75 mm và 105 mm, khoảng 36 vũ khí nặng các cỡ khác nhau (cao xạ, đại liên, súng cối) và những ngày cuối cùng có từ 12 đến 16 giàn hỏa tiễn Liên Xô được biết dưới cái tên Cachiusa. Rất nhiều khẩu pháo được đặt trong các hầm đào sâu trong sườn núi, đối diện với quân Pháp, được che chắn bằng các lớp đất dày hàng mét chỉ chừa một lỗ cho đạn ra khỏi nòng phát hỏa. Ngoài ra còn có các trận địa pháo giả khác để nghi binh, đánh lạc hướng các kính ngắm pháo binh và máy bay trinh sát của địch.
Võ Nguyên Giáp thận trọng chọn lựa cách đánh và mục tiêu của pháo binh. Pháo thủ của ông không được huấn luyện đầy đủ, hệ thống liên lạc của pháo binh không đủ hiện đại để các quan sát viên “sài sang” các thiết bị radio hay điện thoại hướng dẫn tọa độ cho các pháo thủ như trong quân đội phương Tây. Quân đội của ông chưa được huấn luyện cho loại chiến tranh này. Nhưng họ có thể, như họ đã chứng tỏ, học cách tự mình khảo sát chu đáo các khẩu pháo của họ, để trước khi bắn phải kiểm tra đường bắn, xem có thể trúng các mục tiêu ở xa không, vận dụng hoàn hảo cái mà trong bắn pháo người ta gọi là bắn qua ống chuẩn trực hoặc theo cặp vũ khí - mục tiêu.
Không phải bắn 25.000 phát như ước tính của tình báo Pháp mà trong trận Điện Biên Phủ, các khẩu pháo của Việt Minh đã bắn tới 103.000 quả đạn 75 mm hoặc cỡ to hơn nữa. Như thế là Võ Nguyên Giáp đã hai lần làm người Pháp phải hoang mang: vừa bằng sự xuất hiện bất ngờ, vừa bằng hỏa lực của pháo binh. Họ đã không bao giờ có thể nghĩ rằng đối phương có đến 60 khẩu pháo 75 mm. Ba phần tư tổn thất của Pháp không phải là do các trận giáp lá cà với bộ binh mà là do các loạt đạn pháo của đối phương.
Võ Nguyên Giáp nhận rõ những vấn đề khó khăn của Pháp trong khi không chuẩn bị kế hoạch tấn công. Sau này ông kể lại với những lời lẽ rút ra từ sách Binh pháp Tôn Tử và từ cách lập luận của riêng mình: “Chúng tôi thực sự biết rõ kẻ địch và chúng tôi cũng biết rõ mình. Chúng tôi nắm chắc quy luật chiến tranh và chúng tôi đã luôn luôn kiên quyết giữ chủ động. Người Pháp… không thiếu sức mạnh vật chất, không thiếu vũ khí và cả những tướng tài cũng không thiếu. Nhưng chiến tranh của họ là phi nghĩa, họ không bao giờ nắm vững được quy luật chiến tranh”. Đa số các vị thủ lĩnh quân sự có tiếng trong lịch sử, nếu không nói tất cả, đều đã tiến hành những cuộc chiến tranh phi nghĩa và chắc chắn người Pháp (và sau này là người Mỹ) đã không giữ độc quyền chiến tranh phi nghĩa mặc dù Võ Nguyên Giáp đã có thể đánh thắng họ.
Quân lính của Võ Nguyên Giáp tránh đạn pháo của địch bằng cách đào các chiến hào và không có gì lay chuyển nổi, các đường hầm đó tiến dần đến các vị trí phòng thủ, kẹp chặt các cứ điểm của Pháp. Lính Việt Minh còn đào hầm ngầm đặt mìn ở ngay bên dưới cứ điểm của Pháp. Tại cứ điểm Eliane (A.) trong một đường hầm ngầm dài 47 m công binh của Võ Nguyên Giáp đã đặt 1,5 tấn thuốc nổ TNT. Võ Nguyên Giáp nhận xét có nhiều vị trí chiếm đi chiếm lại, một số lần lượt do hai bên chiếm giữ trong các trận đánh giáp lá cà.
Võ Nguyên Giáp bắt đầu đợt xung phong đầu tiên kéo dài từ ngày 13 đến 17/3. Lúc đó Pháp chỉ có đủ đạn cho 6 ngày chiến đấu. Sáng hôm sau, một trận đánh ác liệt đã loại những người bị vây hãm khỏi vòng chiến. Đạn pháo Việt Minh đè bẹp các vị trí địch dưới các trận pháo kích dữ dội. Bộ đội Việt Minh được pháo binh yểm trợ xông lên làm chủ Béatrice (Him Lam) vào giữa đêm. Dù kháng cự lại, nhưng không một quân nào ở cứ điểm Béatrice sống sót. Chỉ trong 15 giờ, De Castries mất một phần lớn lực lượng pháo binh tốt nhất. Tuy nhiên, đội quân của Việt Minh cũng tổn thất nhiều. Các trận tấn công Gabrielle (Độc Lập) và Anne Marie (Bản Kéo) của họ không thành công. Trong những ngày sau đó, quân Pháp đã được tăng cường bằng một tiểu đoàn mới nhảy dù xuống. Ngày 14/3 Võ Nguyên Giáp yêu cầu đình chiến đột xuất không có trong dự kiến. Hai bên thu nhặt thi thể tử sĩ trên đống đổ nát của cứ điểm Béatrice.
Việt Minh lại mở cuộc tấn công mới. Cuộc giao chiến trên cao điểm Gabrielle diễn ra suốt đêm, bất phân thắng bại. Sáng sớm hôm sau quân Pháp bỏ Gabrielle. Trong toàn khu vực không còn một vị trí phòng thủ vòng ngoài nào đứng vững. Các trận pháo kích dữ dội vùi lấp các công sự đắp cao của Pháp. Bernard Fall kể lại: như những ngày tồi tệ trong trận Verdun ở Đại chiến thế giới thứ nhất, đạn pháo của đối phương đã biến lớp đất trên mặt đất thành cát mịn và làm các boong-ke, chiến hào sụp đổ. Nhiều lính Pháp chết ngay từ loạt đạn đầu. Những kẻ sống sót chạy nháo nhào về phân khu trung tâm Điện Biên Phủ để thoát thân. Trận chiến từ bây giờ có thể xem như thất bại. Đại tá Charles Piroth, chỉ huy pháo binh trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đã hứa có thể nhanh chóng làm câm họng pháo binh Việt Minh. Đêm hôm đó, người lính già của Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ còn một cánh tay, đi về hầm của mình, dùng tay rút chốt lựu đạn và tự sát.
Khu bắc Anne Marie được một tiểu đoàn phụ trợ, Tiểu đoàn Thái số 3 bảo vệ. Đạn pháo Việt Minh trùm lên cứ điểm mang theo truyền đơn giục họ chạy sang hàng ngũ kháng chiến. Truyền đơn nói: “Tại sao các bạn phải hy sinh thân mình cho người Pháp?” Những người này thuộc các dân tộc thiểu số thấy Béatrice rồi Gabrielle đã thất thủ, thì hiểu rằng họ sẽ chịu chung số phận. Nhiều lính trong tiểu đoàn đã đào ngũ từ đêm 15/3. Đa số còn lại bỏ về nhà hoặc chạy sang hàng ngũ Việt Minh đêm 17/3. Người Pháp và một số người Thái còn lại thấy không giữ nổi bèn bỏ đồn rút về cứ điểm Huguette. Thế là đợt một của cuộc vây hãm kết thúc.
Trong đợt này, lực lượng Việt Minh cũng tổn thất khá nặng nề. Lực lượng phòng thủ tập đoàn cứ điểm hãy còn tự tin, tính toán rằng họ có thể ngăn cản mọi cuộc tiến công tiếp tục của Võ Nguyên Giáp. Sau một thời gian dài truy đuổi những đội quân không thể nắm bắt, thì nay hình như họ gần như vui thích thấy lực lượng đối phương giàn ra trước mặt, hoàn toàn nhìn rõ ngay từ đầu nòng súng của họ. Mối lo lắng chủ yếu của Pháp là đường băng đã bị phá hoại từ ngày 15/3. Bộ đội Việt Minh cũng tấn công đường băng phụ phía nam làm sân bay Isabelle không sử dụng được. Từ nay việc tiếp tế và đưa quân tiếp viện lên Điện Biên Phủ đều chỉ có thể tiến hành bằng nhảy dù.
Đường băng hỏng không bao giờ có thể dùng lại được nữa. Cái tồi tệ nhất có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Cũng như những kẻ bất cần “cóc sợ gì”, họ tụ tập trong các công sự phòng thủ kiểm tra ổ đạn, mân mê khẩu súng, rình các cuộc xung phong ở bên ngoài và trở thành những mục tiêu bi thảm của đối phương. Họ tức tối chờ đợi, dù biết rằng họ chỉ còn là thách thức đối với lính của Võ Nguyên Giáp. Người ta không bao giờ ngờ được điều đó có thể xảy ra.
1. Đúng hơn là Mường Phăng cách Điện Biên Phủ khoảng 15 km đường chim bay (ND).
Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt
- Tác giả : Ngô Văn Phú
- Danh mục : Lịch sử