Chiến thắng bằng mọi giá
Chương 12 “Đó là một cuộc chiến cực kỳ gian khổ”
Chương 12 “Đó là một cuộc chiến cực kỳ gian khổ”
Tận dụng thời gian tạm lắng giữa năm 1948 và 1950, Võ Nguyên Giáp hoàn thiện nền tảng quân sự và biến những chiến sĩ du kích thành lực lượng chiến đấu có tổ chức. Sự tiến triển thuận lợi đó diễn ra từ sau tháng 10/1949 khi những người cộng sản của Mao Trạch Đông đã giành được toàn thắng trong cuộc nội chiến kéo dài, buộc những người “quốc gia” Trung Hoa phải chạy trốn đến Đài Loan. Mao Trạch Đông đã cho phép Việt Minh ở Việt Bắc được dùng các tỉnh miền Nam Trung Hoa làm hậu phương vững chắc của cuộc kháng chiến. Các đơn vị của Võ Nguyên Giáp có thể sang đó luyện tập dưới dạng những đợt thực tập dài và cấp tập. Bằng cách đó Võ Nguyên Giáp đã có thể tìm ra những phương tiện biến quân đội ít có trình độ nghiệp vụ, phần lớn là hoạt động mạo hiểm thành những đơn vị chiến đấu hiện đại, được trang bị bằng vũ khí mới ra của Mỹ do quân đội Tưởng Giới Thạch bỏ lại trong cuộc tháo chạy vội vã.
Các cán bộ quân sự của Võ Nguyên Giáp sau khi tốt nghiệp các trường quân sự Trung Quốc đã trở thành các sĩ quan và hạ sĩ quan có cấp hiệu. Họ học cách sử dụng pháo binh, lái xe tải và các loại xe khác. Được các cán bộ huấn luyện Trung Quốc giúp đỡ, bộ đội Việt Nam đã biết cách tác chiến cấp đại đội và tiểu đoàn. Rồi Võ Nguyên Giáp tập hợp các đơn vị đã được huấn luyện thành các trung đoàn, mỗi trung đoàn có từ ba đến bốn tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn có quân số đến 600 người. Cuối năm 1949 và đầu năm 1950, Võ Nguyên Giáp hợp bốn trung đoàn thành một đại đoàn khoảng 12.000 người và học cách đánh vận động theo quy mô đại đoàn. Hài lòng trước kết quả đó, Võ Nguyên Giáp cho thành lập bốn đại đoàn ở Việt Bắc (Đại đoàn 304, 308, 312 và 316) và một đại đoàn ở Bắc Trung Bộ (Đại đoàn 320). Không lâu sau, ông cho thành lập đại đoàn trọng pháo gọi là Đại đoàn 351 theo mô hình của đại đoàn pháo binh Xô Viết. Đại đoàn 308 được biết đến với biệt hiệu Sư đoàn thép là một trong những đơn vị chiến đấu ưu tú. Quân của các đại đoàn đó, binh lính cũng như sĩ quan không mang quân hiệu gì để phân biệt với các đơn vị khác, tất cả đều mặc quân phục giống nhau bằng sợi bông nhuộm xanh. Kiểu trang phục đó được duy trì cho đến năm 1958.
Võ Nguyên Giáp dành phần lớn thời gian vào việc huấn luyện bộ đội, đa số xuất thân từ nông dân mù chữ quen với công việc đồng áng, cày ruộng và không biết sử dụng vũ khí như thế nào. Những hoạt động của Pháp ở vùng châu thổ sông Hồng từ năm 1948, 1949 khiến cho việc tuyển mộ tân binh gặp khó khăn. Võ Nguyên Giáp đề xuất Đảng ra lệnh tổng động viên, đặt chế độ đăng ký tuyển tân binh. Từ ngày 4/11/1949, tất cả mọi công dân nam cũng như nữ từ 18 tuổi trở lên có thể được tuyển tân binh. Theo cách đó quân số của những đơn vị chủ lực từ 32 tiểu đoàn năm 1948 lên tới 117 tiểu đoàn năm 1951.
Công việc huấn luyện tiến hành ở miền Nam Trung Quốc rất khẩn trương và mạnh mẽ. Quân đội của Võ Nguyên Giáp ngày một đông bao gồm cả những người ít tin tưởng vào chính quyền, thường lâu nay chỉ sống quanh quẩn trong làng xóm xa xôi, xung quanh có lũy tre bao bọc, không quen làm việc với người xa lạ. Người ta không thể mơ tưởng có nhiều tân binh tốt hơn để xây dựng một lực lượng có tính cách quốc gia. Họ đã lớn lên trong ngạn ngữ Việt Nam: “Phép vua thua lệ làng”. Họ chỉ có một khái niệm mơ hồ về trách nhiệm hay về bổn phận với quyền lực tập trung của chính phủ.
Võ Nguyên Giáp biết rằng ông không thể một sớm một chiều biến những người dân quê thành những người lính của quân đội quốc gia nếu không giáo dục cho họ một tinh thần trung thành và hăng hái phục vụ cách mạng. Ông biết, thiếu giáo dục chính trị, sự chạm trán đầu tiên với một kẻ thù có trang bị tốt hơn sẽ dẫn đến sự tháo chạy tán loạn. Ông phải rèn luyện quân đội không những về ý chí mà còn phải rèn luyện cả về thể chất. Ông viết: “Một sự giáo dục sâu sắc về mục tiêu của Đảng, trung thành trong mọi thử thách với lý tưởng dân tộc và giai cấp, một tinh thần hy sinh tất cả là những điểm căn bản đối với quân đội […]. Từ đó công tác chính trị có tầm quan trọng hàng đầu. Đó là linh hồn của quân đội. Phân tích đến cùng, trong mọi cuộc chiến tranh, thắng lợi được quyết định bởi quần chúng sẵn sàng đổ máu trên chiến trường.”
Võ Nguyên Giáp ra chỉ thị nhằm phát triển việc giáo dục chính trị cho quân đội. Nhiều chương trình tỉ mỉ phân chia tân binh thành từng nhóm nhỏ, ở đó các chính trị viên khéo léo gợi ý để lần lượt từng người kể lại những câu chuyện về sự hành hạ của người Pháp và sự tham lam của các địa chủ trong làng. Người ta kể lại những câu chuyện giết giặc giữ nước hào hùng và tấm gương của các vị anh hùng dân tộc trong quá khứ của Việt Nam. Người ta mô tả những nỗi khổ mà bản thân đã phải chịu đựng hay chỉ biết qua nghe được những câu chuyện kể của người khác. Người ta tán dương, ca tụng được là người Việt Nam, hạ thấp những người nước ngoài. Người ta dựng những vở kịch ngắn, những câu chuyện vui, những khẩu hiệu, những bài hát, nhờ hát đi hát lại nhiều lần nên dễ nhớ dễ thuộc. Từ sáng đến chiều tối, họ hô vang khẩu hiệu: “Chúng ta nhất định thắng”, tạo niềm tin tất thắng vào cuộc đấu tranh.
Gần gũi với hai lớp tân binh khác trong nhóm, lớp tân binh mới này đã mau chóng truyền cho các bạn lòng trung thành nhờ hoàn cảnh gia đình. Người ta biết rõ nhau hơn, đôi khi rất thân thiết với nhau và cuối cùng cũng hiểu ra rằng những cấu trúc tương tự trong đơn vị tạo nên một gia đình mới rộng rãi hơn gia đình nhỏ hẹp ở nhà giữa bố mẹ, anh em. Gia đình lớn này có mục tiêu cao cả hơn, gắn bó với nhau bằng tình đồng chí, bằng sự đồng tâm nhất trí đấu tranh giành thắng lợi vì lợi ích dân tộc và quyền lợi của nhân dân. Những chi bộ Đảng đó gặp nhau hàng ngày để thảo luận về công tác, cân nhắc lợi hại, đánh giá kết quả, chia sẻ với nhau khó khăn cũng như những thắng lợi.
Những buổi trò chuyện trong Tổ ba người được mở rộng một cách đều đặn lên quy mô đại đội thành những buổi họp bắt buộc. Ở đó mỗi người phải tự đánh giá kết quả công tác của bản thân, hoặc nhận xét bình giá kết quả công tác của người khác và của các cán bộ. Người ta có thể tự hỏi khía cạnh tích cực nhất của các buổi họp đó phải chăng là có sự tham dự của tất cả mọi người từ chiến sĩ đến cán bộ chỉ huy, từ lính trơn đến sĩ quan và ai nấy đều đi đến chỗ tin rằng mình là đáng kể, là cần thiết trong nội bộ đơn vị và dù chỉ là binh nhì hay sĩ quan mình cũng là bên nhận trong các quyết định về chủ trương công tác. Đối với các chàng trai từ các vùng sâu vùng xa đến, đó là một kinh nghiệm rất lớn khuyến khích họ coi trọng hơn nữa những lời cam kết và những mục tiêu của họ.
Võ Nguyên Giáp rất coi trọng công tác giáo dục chính trị cho bộ đội, nhờ đó quân đội có được những người lính nhận thức rõ vai trò của họ trong quân đội, trong xã hội và trong cuộc cách mạng. Vì vậy, quân đội của Võ Nguyên Giáp hoàn toàn khác với những đội quân lỏng lẻo, chắp vá của bọn quân phiệt ở miền Nam Trung Quốc hay ở những xứ khác tại phương Đông, thường rất coi thường dân và ra sức cướp bóc, tước đoạt của dân. Việt Minh coi dân như anh em một nhà. Mỗi bên có vai trò khác nhau nhưng tất cả đều cùng cộng tác với nhau trong cuộc đấu tranh chống Pháp.
Trong giai đoạn 1948 - 1950, tình hình chiến trường tạm lắng dịu, không có những cuộc tiến công lớn, Võ Nguyên Giáp còn tập trung xây dựng các cơ quan chỉ huy và thanh tra các đơn vị lớn. Ông cải tổ Bộ Tổng tham mưu, cho tới lúc đó trong số các cố vấn của ông, người ta chỉ suy nghĩ đặt kế hoạch tác chiến theo kiểu hoạt động du kích. Năm 1950, Võ Nguyên Giáp cho tổ chức Bộ Tổng tham mưu theo mô hình phương Tây: Phòng I lo về nhân sự, phòng II (phòng Nhì) về tình báo, phòng III về tác chiến và phòng IV về hậu cần.
Võ Nguyên Giáp cũng lập các quân khu gọi là liên khu bao trùm khắp Việt Nam, cho phép ông duy trì sự kiểm soát đối với các đơn vị phân tán khắp nơi. Mỗi liên khu có bộ chỉ huy quân sự liên khu thâu tóm việc chỉ huy trên cả hai phương diện quân sự và chính trị. Bản thân liên khu cũng chia ra liên tỉnh, liên xã, như vậy đảm bảo một sự chỉ huy thông suốt theo chiến lược từ trên xuống. Trên toàn lãnh thổ có sáu liên khu: Đông Bắc, Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Ngoài ra, Võ Nguyên Giáp còn chia ra các vùng lãnh thổ khác nhau: vùng tự do, vùng tạm chiếm và vùng du kích. Vùng tự do bao gồm: Việt Bắc, các vùng cửa sông Bắc Trung Bộ, các vùng ven biển Trung Bộ ở phía nam Huế, Đồng Tháp Mười và bán đảo Cà Mau ở cực nam Nam Bộ. Các vùng du kích là châu thổ sông Mê Kông ở miền Nam và châu thổ sông Hồng ở miền Bắc, ven biển Trung Trung Bộ, cao nguyên trung tâm dãy Trường Sơn. Những vùng tạm chiếm là các vùng đô thị Sài Gòn, Huế, Hải Phòng và Hà Nội, những đồn điền cao su Nam Bộ, một số vùng ở hạ lưu sông Mê Kông. Sự phân chia các vùng như thế cho phép Võ Nguyên Giáp nhìn rõ các vấn đề đặt ra trên phạm vi địa phương, từ đó đặt ra kế hoạch phù hợp với từng vùng.
Mặc dù đã thiết lập một bản đồ như vậy nhưng đôi khi Võ Nguyên Giáp và Bộ tham mưu cũng rất khó khăn trong việc chỉ đạo đối với Nam Bộ và các vùng ở xa. Khoảng cách quá lớn, việc đi lại khó khăn trên những miền rừng núi hiểm trở, đồn bốt địch trải khắp nơi, đường vận chuyển bằng xe lửa và xe ôtô chở khách bị Pháp kiểm soát gắt gao. Đi lại bằng ôtô cũng nhiều nguy hiểm. Võ Nguyên Giáp thường dùng điện đài để liên lạc với các tỉnh phía nam nhưng sóng dễ bị thiết bị dò sóng của địch phát hiện cho nên việc dùng điện đài cũng khá hạn chế. Bên cạnh đó là những khác biệt về văn hóa vùng, miền. Cho nên không có gì ngạc nhiên khi thấy những người lãnh đạo cách mạng ở miền Nam, về nguyên tắc là đặt dưới sự lãnh đạo và kiểm soát của Võ Nguyên Giáp nhưng trên thực tế cũng có lúc họ hành động theo ý mình.
Từ khi có đủ người để thành lập một quân đội thật sự, Võ Nguyên Giáp lại quan tâm đến việc làm sao để trang bị và tiếp tế cho quân đội đó. Võ Nguyên Giáp đã đưa ra cách giải quyết vấn đề hậu cần rất hiệu quả, cho thấy ông là một trong những vị tướng lĩnh tài danh của mọi thời đại về mặt hậu cần. Ông phải đổi những đơn vị chủ yếu của ông thành một đội quân thường trực nhưng không làm mất đi khả năng tác chiến ở vùng rừng núi vốn là lối đánh có kinh nghiệm của quân đội Khi rút khỏi Hà Nội, ông đã cho tháo gỡ máy móc chuyển lên Việt Bắc để tổ chức các xưởng chế tạo vũ khí. Dưới sự lãnh đạo của kỹ sư Trần Đại Nghĩa trở về từ Pháp cùng với Hồ Chí Minh, những thiết bị máy móc đã được đưa vào hoạt động an toàn tại những binh công xưởng đặt trong hang động sâu trong rừng. Bấy giờ các xưởng quân giới đó đã chế được vũ khí nhẹ, nòng nhỏ và trung bình, trong đó có liên thanh nhẹ, súng cối 120 mm, mìn, lựu đạn…
Những vũ khí còn thô sơ đó đã có thể ghìm chân quân Pháp bên ngoài căn cứ địa Việt Bắc nhưng không đủ để đánh những trận lớn hòng đẩy bật đối phương khỏi các vị trí kiên cố. Điều mà Võ Nguyên Giáp cần là vũ khí hạng nặng, nên phải đợi Mao Trạch Đông đuổi được quân đội Tưởng Giới Thạch ra khỏi đại lục mới có thể giúp trang bị cho Việt Minh. Tuy vậy, hàng viện trợ sang chậm. Năm 1951 quân đội của Võ Nguyên Giáp chỉ nhận được chưa đầy 20 tấn mỗi tháng. Năm sau lên tới 250 tấn mỗi tháng. Năm 1953, Võ Nguyên Giáp nhận được 600 tấn trên tháng và trong những tháng đầu năm 1954 là 1.500 tấn mỗi tháng. Đến giữa năm 1954, mỗi tháng có 4.000 tấn dụng cụ chiến tranh được chở từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Nhận được tiếp tế là một chuyện, phân phối cho các đơn vị là một chuyện khác. Công việc này có các xe vận tải đảm nhiệm. Vì vậy, trong năm 1954, Võ Nguyên Giáp nhận được từ Trung Quốc trên 1.000 xe vận tải Moltova do Nga sản xuất nhưng không tận dụng được vì thiếu đường sá trong rừng rậm Việt Bắc. Ngay lập tức ông ra lệnh phải sửa sang phục hồi những đường cũ, làm lại cầu cống, đồng thời làm những con đường mới. Hàng vạn dân công được huy động vào công việc này. Tuy nhiên, chừng nào Pháp còn giữ các đồn tiền tiêu ở dọc biên giới Việt - Trung thì việc phân phối hàng tiếp tế từ Trung Quốc còn gặp trở ngại, do thiếu các con đường nối liền với các tỉnh phía nam Trung Quốc. Trước mắt những xe vận tải đó đã không giúp được bao nhiêu cho việc phân phối hàng viện trợ.
Võ Nguyên Giáp chọn một giải pháp thiết thực hơn. Quân số lúc này tính chung các binh chủng đã đạt con số 300.000 người. Trong điều kiện thiếu đường sá, các phương tiện vận tải hiện đại không sử dụng được trên địa hình rừng núi ở Việt Bắc, quân lính của ông chỉ có thể được tiếp tế bằng cách sử dụng dân công mang vác. Ông đã tính ít nhất phải cần đến một triệu dân công nhưng không phải là động viên thường trực. Đa số dân công vẫn có thể tiếp tục công việc sản xuất nông nghiệp cho đến lúc nào được gọi đi phục vụ. Chỉ cần một lực lượng thường trực độ 100.000 người luôn luôn có mặt ở Tổng hành dinh và các đơn vị chiến đấu trong những thời kỳ không có giao chiến lớn giữa quân đội Pháp và Việt Minh. Trong thời gian có chiến sự, dân công sẽ chuyên chở từng chặng từ nơi phân phối đến nơi tiếp nhận. Võ Nguyên Giáp phải huy động một số dân công rất lớn, không thể ước tính được. Họ di chuyển không ngừng trên cùng một con đường, họ học được cách mang vác, chuyên chở rất năng suất, chở được nhiều mà mất ít thời gian. Tuy nhiên, sử dụng dân công thì cũng phát sinh vấn đề mới. Họ phải được tuyển lựa, tổ chức thành đội ngũ, kiểm soát và nuôi ăn. Do đó phải tính toán trong tổng số lương thực vận chuyển được thì phải dành đến 90% cho dân công.
Dưới sự lãnh đạo của Võ Nguyên Giáp, các sĩ quan ngành hậu cần tính toán trọng lượng tối đa mà một dân công có thể mang vác được. Mỗi người mang 25 kg gạo và từ 15 đến 20 kg vũ khí, đạn dược, mỗi ngày đi được 25 km trên địa hình dễ dàng và 20 km vào ban đêm, tức 17 kg gạo và từ 10 đến 15 kg vũ khí đạn dược đi được khoảng 15 km ban ngày và 12 km vào ban đêm trên địa hình rừng núi. Đến đó gạo sẽ chuyển sang xe trâu chở được khoảng 350 kg đi vào đường mòn, mỗi ngày đi được 12 km. Ngựa chở yếu hơn trâu nhưng nhanh hơn. Mỗi xe ngựa chở được khoảng 220 kg và mỗi ngày đi được gần 20 km. Không có phương tiện hiện đại, Võ Nguyên Giáp quay về các phương tiện nguyên thủy, dùng sức người hay súc vật để đáp ứng nhu cầu tăng lên không ngừng của quân đội.
Trong năm 1948 và những tháng đầu năm 1949, Võ Nguyên Giáp tập trung suy nghĩ về chiến lược và chiến thuật, hậu cần và huấn luyện bộ đội. Người Pháp vẫn không có hoạt động gì đáng kể để có thể đẩy lùi sự uy hiếp của Việt Minh. Đến tháng 5/1949, Chính phủ Pháp phái Georges Revers, Tổng tham mưu trưởng quân đội, đi thanh sát để đánh giá tình hình Việt Nam và đề xuất giải pháp cho vấn đề Việt Nam khi có cơ hội thuận tiện. Rất nhiều kết luận của ông ta là những sự thật rõ ràng: sơ tán những đồn tiền tiêu trải dọc biên giới Việt - Trung, tăng cường về số lượng và chất lượng các đơn vị phụ trợ người Việt trong quân đội viễn chinh, bình định miền bắc vùng châu thổ sông Hồng, xin Mỹ tăng thêm viện trợ. Tuy nhiên, khuyến cáo cuối cùng của Revers khác với những phân tích quen thuộc của Pháp ở chỗ ông đặt các hành động quân sự phụ thuộc vào cuộc thương lượng ngoại giao với Việt Minh. Các chính trị gia ở chính quốc cũng như những người chỉ huy quân sự Pháp ở Việt Nam không tán thành những đề nghị của Revers. Ở Pháp người ta cho rằng làm như vậy là mất các nguồn lợi quan trọng như gạo, cao su, thiếc. Các sĩ quan cao cấp thì chỉ thấy ở đó sự lên án chính sách của họ, không thừa nhận vai trò của họ ở Đông Dương. Đó là những điều họ không thể chấp nhận. Cũng như người Mỹ sau này, nhiều sĩ quan cao cấp Pháp không ngừng an ủi Chính phủ bằng những ảo tưởng triển vọng của tình hình chiến sự. Bỗng nhiên thừa nhận họ đã đánh giá thấp Võ Nguyên Giáp và những người dưới quyền của ông là điều họ không thể chấp nhận. Giới quân nhân cho rằng họ có lý khi thấy một số hoạt động tấn công quân sự của Võ Nguyên Giáp trong ba tháng 4, 5, 6 năm 1949 như đánh chiếm một vài đồn lẻ của Pháp ở phía bắc và dọc biên giới Trung Hoa đều không có hiệu quả. Họ giải thích những sự kiện đó như là dấu hiệu của việc cải thiện tình hình mà không hiểu rằng Võ Nguyên Giáp không hề có ý định kiểm soát vùng này. Ông chỉ thử sức quân đội của ông và duy trì quân Pháp ở tình thế luôn luôn phải đề phòng.
Trong nhiều năm, chính phủ Paris và các quân nhân Pháp kiên quyết không chịu thừa nhận chủ quyền của họ ở Việt Nam đã đến lúc cáo chung. Một “lô” tướng tá chỉ huy được phái sang Việt Nam để ngăn cản làn sóng cách mạng. Từ năm 1945 đến năm 1954, tám nhân vật cao cấp lần lượt sang Việt Nam cố vật lộn để cứu vãn tình hình: tướng Leclerc từ năm 1946 đến ngày 20/2/1947, trung tướng Jean Valluy tiếp theo, đến năm 1948 được trung tướng Roger Blaizot thay thế, kế đó tháng 9/1949 là trung tướng Marcel Carpentier. Ông này chưa được 15 tháng thì tướng Marcel Alessandri đã thay thế. Vị trí chính thức kết thúc tháng 12/1950 được giao lại cho đại tướng Jean de Lattre de Tassigny. Tham vọng lớn nhưng mệnh yểu vì ung thư, tướng De Lattre để lại sự nghiệp dở dang cho phó tướng của mình là tướng Raoul Salan từ 20/11/1951 để không đầy ba năm sau, tháng 5/1953 quyền bính được trao lại cho đại tướng Henri-Eugène Navarre, người được Võ Nguyên Giáp dành cho “phát súng ân huệ” chấm dứt cuộc đời trận mạc của ông.
Tháng 9/1949 quyền chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương nằm trong tay Marcel Maurice Carpentier. Ông được phong đại úy năm 1915 giữa lúc cuộc đại chiến thế giới đang bất phân thắng bại, ông được coi là sĩ quan trẻ nhất ở cấp bậc đó trong quân đội Pháp. Trải qua năm tháng, đến hẹn lại lên, ông được thăng cấp đều đều. Ông là người được Chính phủ Pháp gửi gắm niềm hy vọng sẽ chiến thắng Việt Minh.
Hoàn toàn không hiểu gì công việc ở cái xứ Đông Dương xa xôi này, Carpentier khá thông minh để thừa nhận yếu kém của mình và khá đủ khiêm nhường để giao lại cho thiếu tướng Marcel Alessandri, một sĩ quan có nhiều năm kinh nghiệm ở Việt Nam. Đó là người sau cuộc đảo chính Nhật ngày 9/3/1945 đã dẫn quân tháo chạy trong một cuộc hành quân khá cực nhọc để tìm chỗ nương thân ở Trung Quốc. Thất vọng vì những người chỉ huy trước không biết đến những gợi ý của ông, hủy bỏ những lệnh của ông, lần này Alessandri trở lại làm việc dưới quyền của một sĩ quan sẵn sàng dành cho ông sự ủng hộ cần thiết để ông thực hiện một số ý tưởng của mình. Ngay lập tức, ông bắt tay vào nhiệm vụ bình định dân chúng ở khu vực châu thổ sông Hồng.
Không đợi lâu, Võ Nguyên Giáp phản ứng tức thì. Giữ chủ lực ở Việt Bắc làm lực lượng dự bị, ông ra lệnh phát động chiến tranh du kích ở đồng bằng để phá công cuộc bình định của Alessandri. Ông kể: “Các đơn vị của chúng tôi phân tán thành những đại đội tác chiến trong từng khu vực tạm chiếm để phát động chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ và thành lập chính quyền địa phương. Đây là một cuộc chiến tranh cực kỳ gian khổ có quan hệ với mọi lĩnh vực quân sự, kinh tế và chính trị. Địch tiến hành càn quét, chúng tôi tổ chức chống càn. Địch tổ chức ngụy quân, lập chính quyền bù nhìn, chúng tôi kiên quyết bảo vệ chính quyền địa phương, trừ gian, phá tề, ra sức đẩy mạnh công tác tuyên truyền”.
Chiến thuật của Alessandri “giải tỏa và giữ” cũng như những cuộc hành quân càn quét của ông được điều hành xuất sắc. Thực tế viên tướng Pháp chiếm được toàn bộ vùng châu thổ và không tốn nhiều công sức lắm với 20 tiểu đoàn trong tay, ông bắt đầu chiếm cứ những nơi gần trước (các tỉnh, đồng ruộng và dân chúng), dần dà từng khu vực một, vùng chiếm đóng lan rộng dần, có khi phải dùng từ ba đến năm tiểu đoàn một lúc. Các cuộc hành binh mang biệt danh lạ hoắc: Pomone, Diane, Ondine... và mỗi lần lại đưa người Pháp gần đến thắng lợi. Binh lính có khi nhảy dù, có khi đi bộ qua các miền quê hoặc được chở bằng các thuyền máy xung kích. Kiên nhẫn và bền bỉ, Pháp bắn giết các du kích trong các cuộc đụng độ, lập đồn bốt, bắt thanh niên vào lực lượng bảo an, dân vệ.
Đối với Alessandri, công việc không đến nỗi khó khăn. Từ năm 1945 - 1947, Võ Nguyên Giáp đã đem hết sức mình để loại trừ các đối thủ gây nguy hiểm cho sự nghiệp của Việt Minh. Những phần tử sống sót sau khi Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội bị tiêu diệt, đã tụ tập trong các tổ chức hội kín kiểu châu Á. Lúc này chúng vui lòng chấp nhận Pháp kiểm soát vùng châu thổ và hy vọng sẽ trả thù Việt Minh. Nhưng họ chỉ là một nhóm không nhiều lắm để Alessandri có thể sử dụng làm công cụ thực hiện những dự án của mình. Vì vậy, viên tướng Pháp quay sang những người Công giáo Bắc Kỳ, trên một triệu tín đồ, cuồng nhiệt trung thành với đức tin. Mỗi làng có một nhà thờ. Cha xứ người Việt như lãnh chúa và giáo dân trong xứ đạo là nông nô. Người dân ở nông thôn đều do các cố đạo và nữ tu sĩ chi phối. Trong lãnh địa của họ, họ là đại diện cho quyền thế tối cao của người Việt dù cho đạo Thiên Chúa là tôn giáo du nhập từ phương Tây bị những người ngoại đạo khinh rẻ. Họ đã vứt bỏ phong cách sống cổ xưa. Ở thế kỷ XIX nhiều người trong số họ đã giúp cho cuộc xâm lược của thực dân Pháp vào Việt Nam được dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Năm 1945, để giải quyết mẫu thuẫn không mấy dễ chịu này, những người Công giáo vồn vã đi theo chủ nghĩa dân tộc cách mạng mới và vui lòng hợp tác với Hồ Chí Minh. Nhưng Hồ Chí Minh muốn thiết lập một giáo hội dân tộc, tách khỏi La Mã để không một người dân nào lại có thể ỷ thế vào sự che chở của Giáo hoàng. Đây là tình thế khó xử của người Công giáo phải chọn lựa giữa đức tin hay dân tộc? Họ đặt tín ngưỡng lên trên và đối lập với Việt Minh. Alessandri đã cho lập ồ ạt các tổ chức vũ trang Công giáo, cung cấp tiền, vũ khí và cho phép họ kiểm soát nông thôn vùng bắc châu thổ. Chính vì vậy mà nhiều người Công giáo Việt Nam vào năm 1945 muốn tìm cách giải phóng đất nước mình khỏi ách thống trị thực dân mãi mãi thì nay đã trở lại làm công cụ phục vụ lợi ích của người Pháp. Dân Công giáo chiếm khoảng một phần năm dân số Bắc Bộ được Alessandri khích lệ, thường xuyên xung đột với Việt Minh. Suốt hai năm 1949 và 1950, gần như mỗi thôn xóm Công giáo đều có tự vệ riêng và biến làng mình có lũy tre bao quanh thành pháo đài do cha xứ địa phương cai quản.
Alessandri cũng tiến hành một cuộc chiến giành thóc gạo với Việt Minh. Thóc gạo có tầm quan trọng hết sức to lớn trong các kế hoạch của Võ Nguyên Giáp, do không có trao đổi kinh tế bình thường, nên gạo là tiền tệ duy nhất của Việt Minh và là nền tảng của toàn bộ hệ thống kinh tế của Việt Nam. Người dân nộp thuế bằng thóc, trao đổi tài sản và dịch vụ lấy thóc và lĩnh lương bằng thóc quy ra tiền và thường cho Nhà nước vay “công trái yêu nước” cũng tính bằng thóc. Ngân sách của chính phủ cũng tính theo cân gạo, binh lính công chức lĩnh lương tính bằng gạo rồi quy ra tiền giá thóc gạo trên thị trường. Vụ thu hoạch thóc lúa rất quan trọng vì không có thu hoạch thì toàn bộ phong trào cách mạng thất bại. Vì vậy, trong mùa thu hoạch, Võ Nguyên Giáp cho phép dân công được trở về làng làm công việc thu hoạch lúa và đập lúa. Nếu không làm như vậy thì nạn đói có thể đe dọa cuộc sống của nhân dân và làm tê liệt mọi sinh hoạt của đất nước. Trong năm 1950, thắng lợi của Alessandri giành được trong cuộc chiến giành thóc gạo khiến Việt Minh lo lắng đến vấn đề tiếp tế lương thực cho bộ đội, cơ quan và nhân dân phi nông nghiệp. Người Pháp tịch thu được số lớn thóc lúa gặt về, bố trí canh gác trên đồng ruộng để kiểm soát việc thu hoạch. Võ Nguyên Giáp đã cố gắng để bộ đội được ăn đủ khẩu phần, còn những người khác mỗi ngày chỉ được một bát cơm ăn tạm cho đỡ đói.
Nhưng cuối cùng những cố gắng của Alessandri cũng không đi đến đâu vì ba lý do: trước hết, các cấp trên của ông một lần nữa đã cho ông ra rìa. Sau đó là Mao Trạch Đông đã làm chủ được lục địa Trung Hoa, viện trợ cho Việt Minh một phần. Thắng lợi của Alessandri trong chiến tranh lúa gạo trở về số không. Và cuối cùng Alessandri không đạt được kết quả bao nhiêu trong mưu toan dụ dỗ các thân hào Bắc Bộ ra làm việc cho Pháp để bảo vệ lợi ích của chính họ. Tướng Mỹ Philip B. Davidson nói rất đúng rằng: “Đối với người Pháp, quần chúng người bản xứ là những quân cờ, những lá bài được thua trong các ván bài, được người ta sử dụng như những người lính, là nguồn lợi tức và những người lính người Pháp không chịu cố gắng để thuyết phục dân chúng ở các vùng họ kiểm soát về các giá trị của chính mình (người Pháp) và các học thuyết của mình. Điều này cũng dễ hiểu vì chính người Pháp chẳng có gì đáng để tuyên truyền phổ biến”.
Năm 1950 cuối cùng Võ Nguyên Giáp quyết định mạo hiểm giao chiến với người Pháp. Ông nghĩ quân đội đã trưởng thành đến mức ông có thể thay đổi hoạt động từ lấy du kích chiến là chủ yếu sang vận động chiến thực sự mà không nguy hiểm gì lớn. Một hôm ông nói: “Rất khó nói được là đến ngày nào chuyển từ du kích chiến sang vận động chiến vì không có một ranh giới dứt khoát nào giữa hai thời kỳ này. Nhưng năm 1950 chúng ta đã mở chiến dịch lớn đầu tiên có sử dụng các đại đoàn… Chiến dịch giải phóng biên giới năm đó có thể coi như cơ sở đánh dấu sự biến chuyển sang vận động chiến”.
Trong khuôn khổ chuẩn bị chiến dịch, ông thành lập trung đoàn 209 cùng với trung đoàn 308 (sau này là đại đoàn), ông ra lệnh bắt đầu các chiến dịch chống lại quân Pháp. Võ Nguyên Giáp cho triển khai những hoạt động quân sự đầu tiên suốt dọc đường số 4 giữa Cao Bằng và thủ phủ của căn cứ địa Việt Bắc và Lạng Sơn. Các cơ sở quân sự của Pháp đóng trên đường số 4 – Cao Bằng, Đông Khê và Thất Khê đều ở xa, cách trung tâm chiếm đóng của Pháp 500 km – đều đang ở tình thế nguy hiểm và cũng là vô ích vì từ đầu tháng 5/1949 Tổng tham mưu trưởng là tướng Georges Revers đã đề xuất rút các đồn binh lẻ ấy. Revers đã kết luận chúng là vết thương rỉ máu làm cạn nguồn lực của Pháp và chắc không thể chịu được một cuộc tiến công của đối phương.
Đúng như Revers đã nhìn thấy từ tháng 4, 5, 6 năm 1949, giờ đây gần một năm sau – tháng 3 và 4 năm 1950 – Võ Nguyên Giáp ra lệnh tiến công những đồn lẻ của Pháp để thăm dò. Một số vị trí đã bị uy hiếp nặng đến nỗi người Pháp đã đánh giá tốt nhất là nên bỏ. Võ Nguyên Giáp nói: “Các trung đội của chúng tôi đã trở thành những đại đội và chúng tôi đã đủ sức tiến công các đồn trại Pháp. Chúng tôi chỉ đánh khi thấy điều đó có lợi cho mình”. Các đơn vị nhỏ chỉ có hai quy tắc: không để địch nghỉ ngơi và triển khai lực lượng của chính mình, đồng thời tiến công địch. Các đại đội phát triển thành tiểu đoàn, tiểu đoàn thành trung đoàn, trung đoàn thành đại đoàn và quá trình có thể đảo ngược nếu cần thiết. Rồi Võ Nguyên Giáp cho ngừng các cuộc tiến công và dùng thời gian suốt mùa hè để xây dựng kế hoạch tiến công mùa thu. Ông muốn cuộc tiến công này thực sự là một cuộc thử sức.
Đông Khê nằm gần giữa đoạn đường từ Cao Bằng đi Thất Khê dọc đường số 4 vùng biên giới đông bắc Việt Bắc. Võ Nguyên Giáp quyết định bằng cách chiếm Đông Khê rồi trụ lại cắt đứt đường số 4, cô lập Cao Bằng với Thất Khê. Như thế Pháp bị cắt nguồn tiếp tế, sẽ thấy chúng có quá nhiều địch trước mặt và chúng quá ít lực lượng để giữ các vị trí kiên cố dọc đường số 4. Võ Nguyên Giáp đặt tên cho cuộc hành quân này là Chiến dịch Lê Hồng Phong. Đây là một trải nghiệm đối với các sư đoàn mới được huấn luyện và vừa được trang bị vũ khí mới.
Ngày 1/10/1950, lợi dụng sương mù phủ kín mặt đất từ khi mùa mưa kết thúc để ngụy trang cuộc tiến quân, Võ Nguyên Giáp ra lệnh tiến đánh Đông Khê. Bị thu hẹp trong vận động chiều ngang không thể gọi quân tăng cường từ phía nam đến, lại bị cô lập với các vị trí khác bởi hàng cây số rừng rậm, quân Pháp phòng thủ Đông Khê thấy ít có cơ may giành thắng lợi. Họ thành mục tiêu của các cỗ pháo mới của Võ Nguyên Giáp và trở thành mồi cho cuộc đấu pháo đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương.
Phía bắc Đông Khê, viên chỉ huy Pháp ở Cao Bằng do dự, không chấp hành ngay mệnh lệnh đã nhận được là phải phá hủy mọi dụng cụ và rút nhanh quân đội về Đông Khê. Trong khi đó, một đơn vị lính Maroc gồm 3.500 người cố gắng mở một con đường từ phía bắc Thất Khê lên Đông Khê với ý đồ chiếm lại vị trí này rất nhanh để kịp hội quân với các đơn vị rút từ Cao Bằng về, đánh thông đường liên lạc giữa Thất Khê và Cao Bằng. Nhưng chỉ đến ngày 3/10/1950, viên chỉ huy ở Cao Bằng đáng lẽ phải để lại mọi dụng cụ đi bộ về Đông Khê thì lại lấy xe tải chở người và dụng cụ kéo theo các cỗ trọng pháo nặng nề để di chuyển. Thế là 2.600 lính cùng 500 thường dân đi theo lên đường về Đông Khê trên 128 km đường núi rất thuận tiện cho các cuộc phục kích. Trong ba năm chiếm đóng Cao Bằng, không có trận giao chiến nào lớn với lực lượng của Võ Nguyên Giáp nên binh lính và sĩ quan trong cánh quân Cao Bằng lên đường với lòng tự tin rất cao.
Nào ngờ suốt dọc đường đi lực lượng Pháp bị tiêu hao nặng nề vì các cuộc phục kích liên tiếp, nhiều xe và cỗ pháo bị phá hủy. Cuối cùng viên chỉ huy Pháp phải bỏ lại xe, pháo trên đường cái, tản vào rừng tìm đường mòn đi về Đông Khê. Phải mất ba ngày luồn rừng và bị kiệt sức vì các trận đụng độ với bộ đội Việt Minh, cánh quân Cao Bằng bị đánh tơi tả trước khi gặp được cánh quân Maroc từ Thất Khê lên. Trên các ngả đường mòn xuất hiện nhiều đơn bị quân đội của Võ Nguyên Giáp. Trong mọi cố gắng tuyệt vọng, ba tiểu đoàn dù từ Cao Bằng về cùng với cánh quân từ Thất Khê lên bị đánh giáp lá cà một chọi ba với bộ đội Việt Minh. Kết quả tất cả lực lượng Pháp bị tiêu diệt gần Đông Khê ngày 7/10.
Khi tiếng súng ngừng, Pháp mất trên 6.000 lính, 13 khẩu pháo, 125 súng cối, ba trung đội xe tăng, 450 xe vận tải, 940 súng liên thanh, 1.200 tiểu liên và trên 8.000 súng trường – một khối lượng chiến lợi phẩm khổng lồ đủ trang bị cho một trong số các đại đoàn mới thành lập của Võ Nguyên Giáp. Quân Pháp có thể trụ lại ở Lạng Sơn, phía nam Thất Khê nhưng đã hốt hoảng rút chạy, bỏ lại khá nhiều quân trang và dụng cụ chiến tranh. Đây là trận thua lớn nhất và duy nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa của họ – còn tệ hại hơn cả cái chết của Montcalm tại các cánh đồng Abraham trong trận bao vây Quebec năm 1759. Hậu quả gián tiếp của thảm bại này đối với các sĩ quan Pháp có thể còn lớn hơn thất thủ Điện Biên Phủ bốn năm sau đó. Tình hình trở nên nghiêm trọng đến nỗi Carpentier đã ra lệnh rút bỏ Hà Nội. Nhưng Chính phủ Pháp đã hủy bỏ lệnh và quyết định thay thế viên tướng đang bàng hoàng hốt hoảng đó.
Nhờ thắng lợi đó mà giờ đội quân của Võ Nguyên Giáp đã kiểm soát biên giới phía bắc. Ông đã có được những đường vận chuyển chắc chắn cho đồ tiếp tế của Trung Quốc. Các kỹ sư của ông đã có thể xây dựng hệ thống đường sá đi ôtô được trong phạm vi căn cứ địa Việt Bắc nối liền với các tỉnh miền Nam Trung Quốc. Cuộc chiến tranh với người Pháp còn kéo dài thêm ba năm rưỡi nữa nhưng người Pháp không bao giờ còn có được lợi thế như trước. Việt Minh đã giành được thế chủ động.
Tướng De Lattre de Tassigny thay Carpentier ngày 17/12/1950 với nhiệm vụ giữ được Đông Dương trong đế quốc Pháp. De Lattre nghĩ có thể làm được. Để đi trước, ngăn cản Võ Nguyên Giáp tiếp tục tiến công các đồn tiền tiêu, viên Tổng chỉ huy mới lập “vành đai” nổi tiếng gồm những đồn bốt, lô cốt kiên cố để bảo vệ một vùng tam giác châu thổ sông Hồng nằm giữa Hà Nội và Hải Phòng. Ông cho xây dựng 900 pháo đài kiên cố, 2.200 lô cốt, nhiều hầm ngầm (boong-ke) bê tông vững chãi để khống chế địa hình theo chiều cao và kiểm soát du kích. Công binh bỏ công sức rất lớn để xây dựng một hệ thống tốn kém như vậy, dự kiến sẽ huy động 80.000 lính Pháp và một khối lượng vật tư khổng lồ. Họ đổ gần 51 triệu mét khối bê tông để xây dựng các hầm ngầm, mỗi hầm ngầm thường chứa được chín người lính và một thường dân canh phòng ngày đêm chờ Việt Minh đến tiến công sẽ tiêu diệt bằng liên thanh đã bố trí đầu các khe bắn hoặc lỗ châu mai. Các chiến sĩ Việt Minh vận động quanh các boong-ke ấy như nước đập vào đá. Ngày nay người ta vẫn còn thấy các boong-ke đó sừng sững, trống trơ như nhắc nhở một cách thống thiết về những hy vọng hão huyền của người Pháp.
De Lattre huy động dân thường phải đi canh gác đỡ cho người lính chiến phải thường xuyên ở các doanh trại. Ông bác bỏ việc di tản phụ nữ và trẻ em thường dân Pháp theo lệnh cũ của Carpentier trước đây, cho về không tàu biển viễn dương Le Pasteur từ Pháp sang để đón thường dân di tản đi về Pháp. De Lattre nói: “Chừng nào phụ nữ, trẻ em còn có mặt ở đây, đàn ông không dám bỏ rơi họ để lọt vào tay đối phương”.
Sung sướng trước thắng lợi, nóng lòng muốn giao chiến, Võ Nguyên Giáp muốn nhân đà này giành thắng lợi mới trên dọc đường số 4. Ông lao vào hoàn chỉnh kế hoạch một loạt các cuộc tiến công nở như pháo hoa với hy vọng kiểm soát được đồng bằng sông Hồng. Trong các trận đánh đó, ông vượt quá giới hạn và đã gặp nhiều trở ngại. Những hành động ấy bộc lộ một trong những thiếu sót chủ yếu của ông. Đó là muốn “ăn nhanh”, tin rằng chỉ ý chí không gì lay chuyển nổi của bộ đội là có thể thắng được lực lượng đối phương đông hơn và mạnh hơn. Tuy nhiên, từ giữa những năm 1950, Hoa Kỳ đã cung cấp cho Pháp một số lượng lớn vũ khí của một cường quốc hỏa lực. Võ Nguyên Giáp biết điều đó nhưng ông không nản. Ông làm lần này và lại tiếp tục làm lần nữa trong những giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh chống Pháp cũng như chống Mỹ sau này trong các năm 1951, 1962, 1965, 1968 và 1972. Núi rừng còn cho ông cựu giáo viên sử học nhiều bài học quý giá.
Truyện khác

Cờ lau dựng nước
Tiểu thuyết lịch sử từ khi Ngô Quyền mất đến khi Đinh Bồ Lĩnh lên ngôi lập lên nhà nước Đại Cồ Việt
- Tác giả : Ngô Văn Phú
- Danh mục : Lịch sử